Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. (Mt 23,12)
Càng muốn tạo ấn tượng, khoe khoang để lôi kéo sự chú ý của người khác, chúng ta chỉ càng tạo ra một kết quả ngược lại. Vì thật ra, chính sự khiêm nhường đáng quý của bạn mới tạo được ấn tượng tốt đẹp hơn là sự kiêu căng, thích tỏ ra hơn người.
Ở đâu có tính khiêm tốn thì ở đó sẽ ít khi xảy ra giận dữ hay xung đột, bất hòa. Tính khiêm tốn không thể đồng hành được với việc quá đề cao bản thân, lúc nào cũng xem mình là “cái rốn của vũ trụ”. Thay vào đó, chúng ta hãy xem trọng, đề cao, và không ngại học hỏi từ mọi người xung quanh. Chắc bạn đã biết, để gây được thiện cảm nơi người khác, thì bí quyết chính là nằm ở tính khiêm tốn. Hãy rèn luyện và phát triển tính khiêm tốn lên thành một thái độ sống và thể hiện nó trong mọi mối quan hệ của bạn hàng ngày.
Hãy đọc và suy ngẫm
“Người nào tự bó chặt bản thân trong những suy nghĩ tự cao tự đại, thì chẳng bao lâu sẽ trở nên một kẻ nhỏ mọn trong mắt người khác.”
“Người tự cao tự đại luôn ghi nhớ những lời khen của người khác về mình - trong khi người khiêm tốn luôn ghi nhớ những điều tốt lành mà họ đã may mắn nhận được từ cuộc sống.”
- Fulton J. Sheen
http://vietbao.vn/Van-hoa/Su-khiem-ton/40176911/184/
Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012
Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2012
Con yêu dấu
Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." (Mc 9,7)
Làm gì khi con yêu dấu của ba mẹ khóc?
...Bé làm bẩn hoặc ướt tã? Bé khóc. Bé bị đau? Bé khóc. Bé khát sữa? Bé khóc. Trẻ sơ sinh chưa thể kiểm soát được tiếng khóc của mình cũng giống như bạn không thể kiểm soát được những cơn nấc cụt vậy. Trong những tuần đầu tiên sau khi chào đời, khóc đôi khi là một thói quen mang tính phản xạ của bé; nhưng tiếng khóc của bé lại khiến chúng ta không khỏi lo sợ: “Con mình bị sao thế? Làm sao để con nín đây?”...
...Vào khoảng 6 tháng tuổi, bé bắt đầu phát hiện ra rằng bé có thể khóc để được bạn đáp lại. Nó cũng giống như việc bé phun phì phì và ném thức ăn lung tung để xem bạn dọn dẹp rất ngộ (trong mắt bé), hoặc giơ tay ra để được bế lên. Bé đã bắt đầu ghi nhận một loạt các dữ liệu về nguyên nhân và hệ quả. Đây cũng là lúc bạn có thể nhận ra một số thay đổi tính cách: Một nhóc tì khóc ầm nhà có thể sẽ trở nên rất vui vẻ, hay một em bé sơ sinh ít la khóc có thể trở nên hơi khó gần và khó chiều.
Nếu một đứa bé 6 tháng tuổi khóc dai dẳng mà bạn chẳng hiểu vì sao, rất có thể bé đang trải qua một cột mốc rất quan trọng đầu đời, đó là mọc cái răng sữa đầu tiên. Mọc răng thường khiến bé đau và khó chịu, và bé sẽ chuyển tải cảm xúc này của mình bằng cách khóc.
Em bé của bạn cũng chưa thể hiểu được một khái niệm tâm lý gọi là sự hiện hữu vật thể. Khi còn là trẻ sơ sinh, việc bạn rời phòng không làm ảnh hưởng đến bé bởi vì bé không thực sự hiểu rằng mẹ đang biến đi đâu mất, nhưng giờ đây, bé có thể sẽ bối rối về việc bạn ở đâu và bạn có trở lại không. Khi không thể gọi bạn hoặc hỏi bạn đi đâu, bé sẽ dùng đến “vũ khí” duy nhất của mình – là khóc – để gây chú ý với bạn. Sau cùng, bé sớm nhận ra rằng khi bé khóc, bạn sẽ chạy lại bên bé...
http://www.webtretho.com/home/news/view/63876/2012/02/lam-gi-khi-con-yeu-khoc-%E2%80%93-voi-be-so-sinh-den-2-tuoi.htm#.T1LeeIdmLTx
Làm gì khi con yêu dấu của ba mẹ khóc?
...Bé làm bẩn hoặc ướt tã? Bé khóc. Bé bị đau? Bé khóc. Bé khát sữa? Bé khóc. Trẻ sơ sinh chưa thể kiểm soát được tiếng khóc của mình cũng giống như bạn không thể kiểm soát được những cơn nấc cụt vậy. Trong những tuần đầu tiên sau khi chào đời, khóc đôi khi là một thói quen mang tính phản xạ của bé; nhưng tiếng khóc của bé lại khiến chúng ta không khỏi lo sợ: “Con mình bị sao thế? Làm sao để con nín đây?”...
...Vào khoảng 6 tháng tuổi, bé bắt đầu phát hiện ra rằng bé có thể khóc để được bạn đáp lại. Nó cũng giống như việc bé phun phì phì và ném thức ăn lung tung để xem bạn dọn dẹp rất ngộ (trong mắt bé), hoặc giơ tay ra để được bế lên. Bé đã bắt đầu ghi nhận một loạt các dữ liệu về nguyên nhân và hệ quả. Đây cũng là lúc bạn có thể nhận ra một số thay đổi tính cách: Một nhóc tì khóc ầm nhà có thể sẽ trở nên rất vui vẻ, hay một em bé sơ sinh ít la khóc có thể trở nên hơi khó gần và khó chiều.
Nếu một đứa bé 6 tháng tuổi khóc dai dẳng mà bạn chẳng hiểu vì sao, rất có thể bé đang trải qua một cột mốc rất quan trọng đầu đời, đó là mọc cái răng sữa đầu tiên. Mọc răng thường khiến bé đau và khó chịu, và bé sẽ chuyển tải cảm xúc này của mình bằng cách khóc.
Em bé của bạn cũng chưa thể hiểu được một khái niệm tâm lý gọi là sự hiện hữu vật thể. Khi còn là trẻ sơ sinh, việc bạn rời phòng không làm ảnh hưởng đến bé bởi vì bé không thực sự hiểu rằng mẹ đang biến đi đâu mất, nhưng giờ đây, bé có thể sẽ bối rối về việc bạn ở đâu và bạn có trở lại không. Khi không thể gọi bạn hoặc hỏi bạn đi đâu, bé sẽ dùng đến “vũ khí” duy nhất của mình – là khóc – để gây chú ý với bạn. Sau cùng, bé sớm nhận ra rằng khi bé khóc, bạn sẽ chạy lại bên bé...
http://www.webtretho.com/home/news/view/63876/2012/02/lam-gi-khi-con-yeu-khoc-%E2%80%93-voi-be-so-sinh-den-2-tuoi.htm#.T1LeeIdmLTx
Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2012
Hoàn thiện
Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt 5,46-48)
Phái đoàn Tòa Thánh thăm Giáo Hội Việt Nam
Nhân dịp đến Việt Nam tham dự Cuộc họp Vòng 3 của Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam–Vatican diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày 27 và 28 tháng Hai 2012, Phái đoàn ngoại giao Tòa Thánh – gồm Đức ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh; Đức ông Phanxicô Xaviê Cao Minh Dung thuộc Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh và Đức ông Barnaba Nguyễn Văn Phương thuộc Bộ Truyền Giáo – đã đến thăm một số cơ sở Giáo Hội Công giáo tại Tổng giáo phận Hà Nội và giáo tỉnh Sài Gòn.
Sau khi kết thúc cuộc họp với Phái đoàn Việt Nam, chiều thứ Ba 28 tháng Hai, Phái đoàn Tòa Thánh cùng với Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli – Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam – đã đến thăm Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.
Đúng 17g00, Phái đoàn tới Đại chủng viện trong sự tiếp đón nồng hậu của Đức cha giám đốc Laurensô, quý cha và các chủng sinh thuộc các lớp thần I, thần II, thần III.
Sau khi hướng dẫn Phái đoàn đến viếng Mình Thánh Chúa tại Nguyện đường cùng với gia đình Đại chủng viện, cha Giám học Phêrô Đặng Xuân Thành ngỏ lời chào mừng Phái đoàn.
Tiếp theo, trong bài chia sẻ, Đức ông Ettore Balestrero nói về việc đào tạo các ứng sinh linh mục tại chủng viện. Ngài nhắn nhủ các chủng sinh cố gắng tu luyện, học tập để nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Vị Mục Tử Nhân Lành. Ngài cũng khuyến khích mọi người noi gương Mẹ Maria, cầu xin Mẹ huấn luyện mỗi người biết yêu sự khó nghèo, sống nghèo như Chúa Giêsu, để phục vụ và đem Tin Mừng đến cho anh em mình, như lời Đức Giêsu dạy: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ”.
Sau cùng, ngài chúc mọi người Mùa Chay thánh thiện, và mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn.
Cuộc viếng thăm của Phái đoàn kết thúc trong tâm tình tạ ơn với bài hát “Tán tụng hồng ân”.
Trưa thứ Tư 29 tháng Hai, Phái đoàn Tòa Thánh đã đáp máy bay vào Thành Phố Hồ Chí Minh. Phái đoàn đã đến gặp Đức hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn tại Tòa Tổng Giám mục TP.HCM và dùng cơm trưa tại đây. Vào buổi chiều, Phái đoàn được Đức hồng y hướng dẫn đi thăm một số cơ sở của TGP.TPHCM.
Trước hết, lúc 16g10, Phái đoàn đến Vương cung Thánh đường Sài Gòn. Đức ông Ettore Balestrero đã nói lên niềm phấn khởi được đến thăm ngôi nhà thờ đặc biệt này, nơi đã nuôi dưỡng niềm tin của tín hữu thành phố và cũng là nơi mà trước đây cha mẹ của ngài đã từng được tham dự phụng vụ.
16g45, khi đến thăm Tu viện Thánh Phaolô thành Chartres, Phái đoàn đã rất cảm động ngắm nhìn ngôi nhà nguyện là công trình của ông Nguyễn Trường Tộ, và tham quan ngôi nhà truyền thống rất độc đáo của Tu viện.
17g20, Phái đoàn tiếp xúc với cộng đoàn nữ tu Dòng Kín tại Tu viện Cát Minh Sài Gòn. Vị Thứ trưởng Tòa Thánh rất vui được chiêm ngắm “lá phổi” của Giáo Hội Việt Nam và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đào tạo tại đây.
17g50, Phái đoàn đến thăm Đại chủng viện Thánh Giuse, thăm Nhà Truyền Thống Giáo phận, và gặp gỡ các linh mục ở Trung tâm Mục vụ, chia sẻ mối ưu tư về việc giáo dục đức tin trước những thách đố của thời đại.
18g30, khi được chào đón tại nhà cơm chủng viện, Đức ông thứ trưởng đã khuyên các chủng sinh hãy nhận Đức Kitô và Thánh giá Chúa như là niềm vui đích thực của đời mình.
20g00, Phái đoàn đến Nhà thờ Thuận Phát, tại đây, Đức ông Balestrero nhắc nhở mọi người hãy luôn là chứng nhân của niềm tin và tình thương trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
20g35, khi đến thăm trường Sao Việt, Phái đoàn hân hoan lắng nghe những nỗ lực rất đặc biệt của Ban Giám hiệu trong công tác giáo dục.
21g15, đi ngang qua mảnh đất của nhà thờ An Phú, Phú Mỹ Hưng, Phái đoàn đã dâng lời cầu nguyện cho công trình xây dựng ngôi nhà thờ này được sớm hoàn tất.
Lúc 21g30 Phái đoàn đã đến thăm Trường Mầm Non Mỹ Phước cùng với ngôi nhà nguyện nhỏ bé ấm cúng tại đây, kết thúc một ngày thật bận rộn.
Sáng thứ Năm 01 tháng Ba, sau khi dâng lễ tại ngôi nhà nguyện cổ xưa nhất của Thành phố nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám mục, Phái đoàn đã lên đường đi thăm Tòa Giám mục và Chủng viện Xuân Lộc.
Khoảng 10g00, Phái đoàn tới Tòa Giám mục Xuân Lộc.
Mầu nhiệm hiệp thông thể hiện thật rõ nét khi đón tiếp Phái đoàn Tòa Thánh tại hội trường. Đức ông Thứ trưởng đã bày tỏ cảm xúc trước tâm tình nồng hậu và đặc biệt tâm tình thảo kính hiệp thông trọn vẹn của người tín hữu Việt Nam với Đức Thánh Cha và Hội Thánh toàn cầu. Ngài đề cập đến đặc tính phổ quát của Đức Thánh Cha. Khi Đức Thánh cha ban huấn từ tại Rôma cũng là dành cho toàn thế giới và khi ngài ngỏ lời cảm thông thương mến cho Hội Thánh tại châu Phi thì cũng là cho Hội Thánh tại Xuân Lộc. Đức ông tiếp tục chia sẻ suy tư tâm huyết của Ngài về mầu nhiệm Hội Thánh, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là những chi thể. Dù ở đâu hay làm gì, trong ơn gọi bậc sống của mình, chúng ta biểu lộ vẻ đẹp và sức sống của Chúa. Càng nhiều chi thể thánh thiện, càng biểu lộ tình yêu cao cả của Thiên Chúa và hấp dẫn anh em chưa nhận biết Thiên Chúa về cùng Người và bước vào Hội thánh.
Sau đó, Phái đoàn đã sang thăm Đại chủng viện. Sau khi viếng Thánh Thể, Phái đoàn gặp gỡ thân tình với các chủng sinh và tu sinh. Một đại diện chủng sinh và tu sinh phát biểu chào mừng Phái đoàn Tòa Thánh, bày tỏ niềm vui như đang được sống trong vòng tay yêu thương của Đức Thánh Cha và cảm nhận niềm khích lệ to lớn cho đời dâng hiến của mình.
Phái đoàn Tòa Thánh đã dùng cơm trưa tại Tòa Giám mục Xuân Lộc và về lại TP.HCM trong buổi chiều cùng ngày.
Lúc 16g00, Phái đoàn gặp gỡ các Giám mục của Giáo tỉnh Sài Gòn tại Tòa Tổng Giám mục TGP.TPHCM. Sau bữa cơm chiều, Phái đoàn đã rời Tòa Tổng Giám mục lúc 18g30 để ra sân bay Tân Sơn Nhất trở về Rôma.
http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20120302/14907
Phái đoàn Tòa Thánh thăm Giáo Hội Việt Nam
Nhân dịp đến Việt Nam tham dự Cuộc họp Vòng 3 của Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam–Vatican diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày 27 và 28 tháng Hai 2012, Phái đoàn ngoại giao Tòa Thánh – gồm Đức ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao Tòa Thánh; Đức ông Phanxicô Xaviê Cao Minh Dung thuộc Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh và Đức ông Barnaba Nguyễn Văn Phương thuộc Bộ Truyền Giáo – đã đến thăm một số cơ sở Giáo Hội Công giáo tại Tổng giáo phận Hà Nội và giáo tỉnh Sài Gòn.
Sau khi kết thúc cuộc họp với Phái đoàn Việt Nam, chiều thứ Ba 28 tháng Hai, Phái đoàn Tòa Thánh cùng với Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli – Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam – đã đến thăm Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.
Đúng 17g00, Phái đoàn tới Đại chủng viện trong sự tiếp đón nồng hậu của Đức cha giám đốc Laurensô, quý cha và các chủng sinh thuộc các lớp thần I, thần II, thần III.
Sau khi hướng dẫn Phái đoàn đến viếng Mình Thánh Chúa tại Nguyện đường cùng với gia đình Đại chủng viện, cha Giám học Phêrô Đặng Xuân Thành ngỏ lời chào mừng Phái đoàn.
Tiếp theo, trong bài chia sẻ, Đức ông Ettore Balestrero nói về việc đào tạo các ứng sinh linh mục tại chủng viện. Ngài nhắn nhủ các chủng sinh cố gắng tu luyện, học tập để nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Vị Mục Tử Nhân Lành. Ngài cũng khuyến khích mọi người noi gương Mẹ Maria, cầu xin Mẹ huấn luyện mỗi người biết yêu sự khó nghèo, sống nghèo như Chúa Giêsu, để phục vụ và đem Tin Mừng đến cho anh em mình, như lời Đức Giêsu dạy: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ”.
Sau cùng, ngài chúc mọi người Mùa Chay thánh thiện, và mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn.
Cuộc viếng thăm của Phái đoàn kết thúc trong tâm tình tạ ơn với bài hát “Tán tụng hồng ân”.
Trưa thứ Tư 29 tháng Hai, Phái đoàn Tòa Thánh đã đáp máy bay vào Thành Phố Hồ Chí Minh. Phái đoàn đã đến gặp Đức hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn tại Tòa Tổng Giám mục TP.HCM và dùng cơm trưa tại đây. Vào buổi chiều, Phái đoàn được Đức hồng y hướng dẫn đi thăm một số cơ sở của TGP.TPHCM.
Trước hết, lúc 16g10, Phái đoàn đến Vương cung Thánh đường Sài Gòn. Đức ông Ettore Balestrero đã nói lên niềm phấn khởi được đến thăm ngôi nhà thờ đặc biệt này, nơi đã nuôi dưỡng niềm tin của tín hữu thành phố và cũng là nơi mà trước đây cha mẹ của ngài đã từng được tham dự phụng vụ.
16g45, khi đến thăm Tu viện Thánh Phaolô thành Chartres, Phái đoàn đã rất cảm động ngắm nhìn ngôi nhà nguyện là công trình của ông Nguyễn Trường Tộ, và tham quan ngôi nhà truyền thống rất độc đáo của Tu viện.
17g20, Phái đoàn tiếp xúc với cộng đoàn nữ tu Dòng Kín tại Tu viện Cát Minh Sài Gòn. Vị Thứ trưởng Tòa Thánh rất vui được chiêm ngắm “lá phổi” của Giáo Hội Việt Nam và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đào tạo tại đây.
17g50, Phái đoàn đến thăm Đại chủng viện Thánh Giuse, thăm Nhà Truyền Thống Giáo phận, và gặp gỡ các linh mục ở Trung tâm Mục vụ, chia sẻ mối ưu tư về việc giáo dục đức tin trước những thách đố của thời đại.
18g30, khi được chào đón tại nhà cơm chủng viện, Đức ông thứ trưởng đã khuyên các chủng sinh hãy nhận Đức Kitô và Thánh giá Chúa như là niềm vui đích thực của đời mình.
20g00, Phái đoàn đến Nhà thờ Thuận Phát, tại đây, Đức ông Balestrero nhắc nhở mọi người hãy luôn là chứng nhân của niềm tin và tình thương trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
20g35, khi đến thăm trường Sao Việt, Phái đoàn hân hoan lắng nghe những nỗ lực rất đặc biệt của Ban Giám hiệu trong công tác giáo dục.
21g15, đi ngang qua mảnh đất của nhà thờ An Phú, Phú Mỹ Hưng, Phái đoàn đã dâng lời cầu nguyện cho công trình xây dựng ngôi nhà thờ này được sớm hoàn tất.
Lúc 21g30 Phái đoàn đã đến thăm Trường Mầm Non Mỹ Phước cùng với ngôi nhà nguyện nhỏ bé ấm cúng tại đây, kết thúc một ngày thật bận rộn.
Sáng thứ Năm 01 tháng Ba, sau khi dâng lễ tại ngôi nhà nguyện cổ xưa nhất của Thành phố nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám mục, Phái đoàn đã lên đường đi thăm Tòa Giám mục và Chủng viện Xuân Lộc.
Khoảng 10g00, Phái đoàn tới Tòa Giám mục Xuân Lộc.
Mầu nhiệm hiệp thông thể hiện thật rõ nét khi đón tiếp Phái đoàn Tòa Thánh tại hội trường. Đức ông Thứ trưởng đã bày tỏ cảm xúc trước tâm tình nồng hậu và đặc biệt tâm tình thảo kính hiệp thông trọn vẹn của người tín hữu Việt Nam với Đức Thánh Cha và Hội Thánh toàn cầu. Ngài đề cập đến đặc tính phổ quát của Đức Thánh Cha. Khi Đức Thánh cha ban huấn từ tại Rôma cũng là dành cho toàn thế giới và khi ngài ngỏ lời cảm thông thương mến cho Hội Thánh tại châu Phi thì cũng là cho Hội Thánh tại Xuân Lộc. Đức ông tiếp tục chia sẻ suy tư tâm huyết của Ngài về mầu nhiệm Hội Thánh, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là những chi thể. Dù ở đâu hay làm gì, trong ơn gọi bậc sống của mình, chúng ta biểu lộ vẻ đẹp và sức sống của Chúa. Càng nhiều chi thể thánh thiện, càng biểu lộ tình yêu cao cả của Thiên Chúa và hấp dẫn anh em chưa nhận biết Thiên Chúa về cùng Người và bước vào Hội thánh.
Sau đó, Phái đoàn đã sang thăm Đại chủng viện. Sau khi viếng Thánh Thể, Phái đoàn gặp gỡ thân tình với các chủng sinh và tu sinh. Một đại diện chủng sinh và tu sinh phát biểu chào mừng Phái đoàn Tòa Thánh, bày tỏ niềm vui như đang được sống trong vòng tay yêu thương của Đức Thánh Cha và cảm nhận niềm khích lệ to lớn cho đời dâng hiến của mình.
Phái đoàn Tòa Thánh đã dùng cơm trưa tại Tòa Giám mục Xuân Lộc và về lại TP.HCM trong buổi chiều cùng ngày.
Lúc 16g00, Phái đoàn gặp gỡ các Giám mục của Giáo tỉnh Sài Gòn tại Tòa Tổng Giám mục TGP.TPHCM. Sau bữa cơm chiều, Phái đoàn đã rời Tòa Tổng Giám mục lúc 18g30 để ra sân bay Tân Sơn Nhất trở về Rôma.
http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20120302/14907
Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012
Dấu lạ
Quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. (Lc 11,30)
Chứng từ của đức cha Angelo Comastri về mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), sáng lập viên dòng các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái. Đức Tổng Giám Mục Angelo Comastri đại diện Tòa Thánh đặc trách đền thánh Đức Mẹ Loreto, miền Bắc nước Ý.
...Từ lúc còn trẻ, tôi đã có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Teresa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:
- "Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?".
Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:
- "Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?". Mẹ Teresa liền nắm chặt hai bàn tay tôi, rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:
- "Con à, nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!".
Tôi không bao giờ quên cuộc gặp gỡ lần đó. Sau này, chúng tôi còn gặp nhau nhiều lần nữa.. Năm 1979, mẹ Teresa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Giải thưởng khiến mẹ gần như khép nép và trở nên nhỏ bé trong bàn tay Thiên Chúa. Mẹ Teresa đi Oslo, thủ đô Na Uy, lãnh giải thưởng mà trong tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi. Người ta trông thấy những ngón tay mẹ thô kệch và xấu xí, vì lao công vất vả và vì thường xuyên chăm sóc các trẻ em, những người bệnh tật, già yếu và nghèo nàn. Biết rõ thế nên không ai nỡ trách mẹ dám công khai bày tỏ lòng kính mến Trinh Nữ MARIA trong một xứ sở toàn tòng là tín hữu tin lành Luther!
Trên đường trở về từ Oslo, mẹ Teresa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu thừa sai bác ái ở Monte Celio. Mẹ Teresa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:
- "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?". Mẹ Teresa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:
- "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao?". Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng.. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Teresa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:
- "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?".
- Dạ rồi, chàng ký giả đáp.
- "Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?".
- Thưa mẹ, ba đứa!
- "Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong!
.. Năm 1988 mẹ Teresa Calcutta đến thăm tôi ở Porto Santo Stefano, một thị trấn nằm gần Roma. Năm ấy tôi là cha sở của họ đạo.
Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ. Hôm đó là ngày 18 tháng 5, một ngày tuyệt đẹp của tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ. Bầu trời trong xanh. Trên biển, sóng nước lăn tăn như nhí nhảnh tươi cười. Mẹ Teresa lặng lẽ chiêm ngắm cảnh đẹp rồi đột ngột nói với chúng tôi:
- "Cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp. Sống trong một khung cảnh tuyệt đẹp, quí vị cũng phải nhớ chăm sóc cho linh hồn mình thật đẹp !"
Vào cuối buổi Canh Thức Cầu Nguyện tối hôm đó, xảy ra một câu chuyện như sau. Một kỹ nghệ gia giàu có trong vùng muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Teresa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng. Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ. Nhưng mẹ Teresa nói: - "Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không. Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!".
Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ. Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:
- "Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!".
Nhưng mẹ Teresa quyết liệt trả lời:
- "Không, thưa ông không. Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng!". Câu nói của mẹ làm tôi nhớ đến thánh Bonaventura viết về thánh Phanxicô thành Assisi như sau:
"Người đời yêu giàu sang thế nào Phanxicô cũng yêu khó nghèo như thế!".
.. Năm 1991, cũng vào một ngày tuyệt đẹp trong tháng Năm, mẹ Teresa Calcutta lại đến thăm tôi ở Massa Maritima, cách Roma không xa. Mẹ cho tôi biết ý định mở một nhà dành cho các Nữ Tu Chiêm Niệm Thừa Sai Bác Ái. Mẹ giải thích:
- "Các nữ tu cầu nguyện trước Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa, sẽ chiếu tỏa ra chung quanh ánh sáng của lòng nhân hậu. Chúng ta cần có những con tim trong sạch để tiếp đón TÌNH YÊU! Những con tim thật trong sạch!".
Từ Massa Maritima chúng tôi dùng trực thăng để đưa mẹ Teresa đến đảo Isola d'Elba, tham dự một buổi Cầu Nguyện. Ngồi trên trực thăng, tôi chỉ cho mẹ thấy những địa điểm quan trọng của đảo .. Bỗng chốc, một người trong nhóm đến quỳ bên cạnh tôi run rẩy thú nhận:
- "Thưa cha, con không rõ chuyện gì xảy đến cho con. Con có cảm tưởng chính Thiên Chúa đang nhìn con qua cái nhìn của người phụ nữ này!". Quay sang mẹ Teresa, tôi lập lại lời người đàn ông vừa nói. Mẹ Teresa nhẹ nhàng đáp:
- "Xin cha nói với ông ta, đã từ lâu lắm rồi, Thiên Chúa vẫn nhìn ông. Nhưng chính ông đã không nhận ra Ngài! THIÊN CHÚA lÀ TÌNH YÊU!" Rồi nhìn sang người đàn ông, mẹ Teresa giơ tay siết mạnh tay ông, và trao cho ông một vài ảnh đeo Đức Mẹ, như những nụ hôn đượm đầy hương thơm của TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!
Đó là vài hình ảnh sống động của mẹ Teresa Calcutta: đơn sơ, hiền dịu, khiêm tốn, trong sáng và chiếu tỏa TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!.
("Tertium Millennium", Agenzia d'Informazione, n.3, Settembre/1997, trang 3-4).
19.10.2003, nhân dịp Mẹ Teresa được nâng lên hàng chân phước.
http://www.binhcang.com/meteresa.html
Chứng từ của đức cha Angelo Comastri về mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), sáng lập viên dòng các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái. Đức Tổng Giám Mục Angelo Comastri đại diện Tòa Thánh đặc trách đền thánh Đức Mẹ Loreto, miền Bắc nước Ý.
...Từ lúc còn trẻ, tôi đã có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Teresa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:
- "Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?".
Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:
- "Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ?". Mẹ Teresa liền nắm chặt hai bàn tay tôi, rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:
- "Con à, nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!".
Tôi không bao giờ quên cuộc gặp gỡ lần đó. Sau này, chúng tôi còn gặp nhau nhiều lần nữa.. Năm 1979, mẹ Teresa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Giải thưởng khiến mẹ gần như khép nép và trở nên nhỏ bé trong bàn tay Thiên Chúa. Mẹ Teresa đi Oslo, thủ đô Na Uy, lãnh giải thưởng mà trong tay nắm chặt tràng chuỗi Mân Côi. Người ta trông thấy những ngón tay mẹ thô kệch và xấu xí, vì lao công vất vả và vì thường xuyên chăm sóc các trẻ em, những người bệnh tật, già yếu và nghèo nàn. Biết rõ thế nên không ai nỡ trách mẹ dám công khai bày tỏ lòng kính mến Trinh Nữ MARIA trong một xứ sở toàn tòng là tín hữu tin lành Luther!
Trên đường trở về từ Oslo, mẹ Teresa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu thừa sai bác ái ở Monte Celio. Mẹ Teresa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:
- "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?". Mẹ Teresa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:
- "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao?". Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng.. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Teresa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:
- "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?".
- Dạ rồi, chàng ký giả đáp.
- "Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?".
- Thưa mẹ, ba đứa!
- "Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong!
.. Năm 1988 mẹ Teresa Calcutta đến thăm tôi ở Porto Santo Stefano, một thị trấn nằm gần Roma. Năm ấy tôi là cha sở của họ đạo.
Tôi còn nhớ như in cuộc gặp gỡ. Hôm đó là ngày 18 tháng 5, một ngày tuyệt đẹp của tháng Hoa dâng kính Đức Mẹ. Bầu trời trong xanh. Trên biển, sóng nước lăn tăn như nhí nhảnh tươi cười. Mẹ Teresa lặng lẽ chiêm ngắm cảnh đẹp rồi đột ngột nói với chúng tôi:
- "Cảnh vật nơi đây tuyệt đẹp. Sống trong một khung cảnh tuyệt đẹp, quí vị cũng phải nhớ chăm sóc cho linh hồn mình thật đẹp !"
Vào cuối buổi Canh Thức Cầu Nguyện tối hôm đó, xảy ra một câu chuyện như sau. Một kỹ nghệ gia giàu có trong vùng muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Teresa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng. Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ. Nhưng mẹ Teresa nói: - "Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không. Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!".
Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ. Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:
- "Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!".
Nhưng mẹ Teresa quyết liệt trả lời:
- "Không, thưa ông không. Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng!". Câu nói của mẹ làm tôi nhớ đến thánh Bonaventura viết về thánh Phanxicô thành Assisi như sau:
"Người đời yêu giàu sang thế nào Phanxicô cũng yêu khó nghèo như thế!".
.. Năm 1991, cũng vào một ngày tuyệt đẹp trong tháng Năm, mẹ Teresa Calcutta lại đến thăm tôi ở Massa Maritima, cách Roma không xa. Mẹ cho tôi biết ý định mở một nhà dành cho các Nữ Tu Chiêm Niệm Thừa Sai Bác Ái. Mẹ giải thích:
- "Các nữ tu cầu nguyện trước Nhà Tạm có Mình Thánh Chúa, sẽ chiếu tỏa ra chung quanh ánh sáng của lòng nhân hậu. Chúng ta cần có những con tim trong sạch để tiếp đón TÌNH YÊU! Những con tim thật trong sạch!".
Từ Massa Maritima chúng tôi dùng trực thăng để đưa mẹ Teresa đến đảo Isola d'Elba, tham dự một buổi Cầu Nguyện. Ngồi trên trực thăng, tôi chỉ cho mẹ thấy những địa điểm quan trọng của đảo .. Bỗng chốc, một người trong nhóm đến quỳ bên cạnh tôi run rẩy thú nhận:
- "Thưa cha, con không rõ chuyện gì xảy đến cho con. Con có cảm tưởng chính Thiên Chúa đang nhìn con qua cái nhìn của người phụ nữ này!". Quay sang mẹ Teresa, tôi lập lại lời người đàn ông vừa nói. Mẹ Teresa nhẹ nhàng đáp:
- "Xin cha nói với ông ta, đã từ lâu lắm rồi, Thiên Chúa vẫn nhìn ông. Nhưng chính ông đã không nhận ra Ngài! THIÊN CHÚA lÀ TÌNH YÊU!" Rồi nhìn sang người đàn ông, mẹ Teresa giơ tay siết mạnh tay ông, và trao cho ông một vài ảnh đeo Đức Mẹ, như những nụ hôn đượm đầy hương thơm của TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!
Đó là vài hình ảnh sống động của mẹ Teresa Calcutta: đơn sơ, hiền dịu, khiêm tốn, trong sáng và chiếu tỏa TÌNH YÊU THIÊN CHÚA!.
("Tertium Millennium", Agenzia d'Informazione, n.3, Settembre/1997, trang 3-4).
19.10.2003, nhân dịp Mẹ Teresa được nâng lên hàng chân phước.
http://www.binhcang.com/meteresa.html
Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012
Danh thánh
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (Lc 6,9)
Không được đọc ''Giavê'' nữa : Thượng Hội Đồng Giám Mục chấp nhận quy định này
Một bức thư của Thánh Bộ Rôma về Phụng vụ.
RÔMA, Thứ sáu, 24-10-2008 (ZENIT.org) – Do tôn kính Tên của Thiên Chúa, vì Truyền thống của Hội Thánh, vì Dân tộc Do-thái, và vì những lý do ngữ học, nay không được xưng Tên của Thiên Chúa ra bằng kiểu đọc «Giavê » nữa.
THĐGM về Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Hội Thánh đã đưa ra thực hành quy định này của Thánh Bộ Rôma về phượng tự, vì - « do chỉ thị của Đức Thánh Cha » - Thánh Bộ này yêu cầu không dùng cách chuyển tự bốn phụ âm Híp-ri nữa - « Tứ linh tự » - được đọc thành « Giavê » (Yahvé hoặc Yahweh) trong các bản dịch, « các cuộc cử hành phụng vụ , trong các bài thánh ca, và trong các lời cầu nguyện » của Hội Thánh Công giáo.
Đây là điều mà vào buổi sáng hôm nay, tại Vatican, Đức Cha Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng về văn hóa, chuyên viên Kinh Thánh, và chủ tịch Ủy ban soạn thảo Sứ điệp của THĐGM, đã cho biết rồi giới thiệu tin tức này cho giới báo chí, và trả lời các câu hỏi của các nhà báo.
Khi Zenit hỏi về điểm này, Đức Cha Ravasi đã cho biết rằng một vài thành viên của THĐGM đã dùng từ đó và thế là người ta đã nhắc lại quy định mới. Đức Cha Ravasi đã nêu bật tầm quan trọng của việc tôn trọng cách dùng của cộng đồng Do-thái về điểm này và ngài đã đưa ra các lý do ngữ học.
Quả thật, bốn con chữ Hip-ri để diễn tên Thiên Chúa, đã được mạc khải cho Môsê (x. Xh 3), là bốn phụ âm, « Tứ linh tự » (Yod-Heh-Waw-Heh, thường được chuyển tự ra theo bảng chữ cái [ngoại quốc] là: IHWH). Bốn phụ âm này không được đọc ra bởi vì người ta không biết nó được diễn ra thành âm như thế nào. Hoặc đúng hơn, trong truyền thống Cựu Ước, tên Thiên Chúa không được đọc ra.
Chỉ có vị thượng tế có thể xướng lên, mỗi năm một lần, khi ngài vào trong Gian Cực Thánh của Đền thờ Giêrusalem. Như thế cách phát âm đã được giữ kín rồi bị mất đi. Một số người còn gợi ý là tên này chưa bao giờ được đọc thành âm cả, vì không một ai có thể cho rằng mình nắm được Thiên Chúa nhờ xướng được Tên của Người.
Sách Huấn ca chẳng hạn nói về thượng tế Simôn rằng : « Bấy giờ ông bước xuống, giơ tay trên toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và đọc lời chúc lành của Đức Chúa ; như thế ông được vinh dự xướng lên Thánh Danh Người » (Huấn ca, ch. 50, c. 20).
Đức Cha Ravasi đã nhắc lại rằng truyền thống Kinh thánh Hípri bằng tiếng Hy-lạp do « Bảy Mươi » hiền giả Do-thái (72 dịch giả vào khoảng năm 270 tr. C.G.), đã thay thế Tứ linh tự bằng từ Hy-lạp « Kyrios », có nghĩa là « Đức Chúa ». Bản dịch « Vetus latina » và Bản « Vulgata » của thánh Giêrônimô đã dịch là « Dominus » « Đức Chúa », như văn kiện của Thánh Bộ Rôma đã nhắc lại và do đó yêu cầu trở lại với cách đọc « Đức Chúa , mỗi khi bản văn dùng Tứ linh tự.
Trong Thư gửi các Hội Đồng Giám Mục thế giới mà nói về Tên Thiên Chúa, Thánh Bộ phượng tư và kỷ luật bí tích đã yêu cầu loại bỏ cách chuyển tự trên trong cách sách được dùng mà đọc trong Phụng vụ.
Văn kiện này, được ban ngày 29-6-2008, đã được công bố trong tạp chí « Notitiae » của Thánh Bộ. Văn kiện mang chữ ký của Tổng Trưởng Thánh Bộ, Đức HY Francis Arinze, và Đức Giám Mục Albert Malcom Ranjith, thư ký của cơ quan này.
Thánh Bộ nhắc lại văn kiện của mình là « Liturgiam Authenticam » năm 2001, nói về các bản dịch phụng vụ, trong đó có yêu cầu « tên của Thiên Chúa toàn năng », được diễn ta bằng « tứ linh tự Hípri » và tiếng La-tinh là « Dominus », phải được diễn ra « trong các ngôn ngữ địa phương » bằng một từ « tương đương ».
Thế nhưng cách thực hành đã phổ biến là « xướng tên của Thiên Chúa Israel », là phát âm khi đọc các bản văn Kinh thánh của các sách Bài đọc phụng vụ, nhưng cả trong các thánh thi và các lời cầu nguyện, là « Giavê » (« Yahweh », « Jahweh » hoặc « Yehovah ».
Bên Pháp, các bản văn phụng vụ không dùng kiểu phát âm là « Giavê », nhưng cách đọc này xuất hiện trong các bản dịch Kinh Thánh - mà các bản dịch này thì không phải là chuẩn mực cho phụng vụ » - hoặc trong các thánh ca.
Sau một phần biện luận rút từ Kinh Thánh, văn kiện khẳng định : « Vậy việc bỏ đọc tứ linh tự của tên Thiên Chúa từ phía Hội Thánh có lý hữu của nó. Ngoài một lý do thuần túy ngữ học, cũng có lý do là trung thành với truyền thống Hội Thánh, bởi vì tứ linh tự[1] chưa báo giờ được xướng trong bối cảnh Kitô giáo, hoặc dịch ra trong bất cứ ngôn ngữ nào người ta dùng để dịch Kinh Thánh ».
Các trào lưu khác của Do-thái giáo hiện đại duy trì truyền thống này là Tứ linh tự chỉ có thể được xướng lên bởi vị Thượng Tế trong Đền thờ mà thôi, và ngay vị này cũng thường chỉ xướng Tứ linh tự vào Yom Kippour (Ngày đại lễ Xá Tội) mà thôi.
Vì Đền thờ Giêrusalem đã bị tàn phá rồi, Tên này chẳng bao giờ còn được người Do-thái xướng lên khi cử hành các nghi thức tôn giáo, hoặc trong các cuộc trò chuyện riêng tư. Trong kinh nguyện, Tứ linh tự được thay thế bằng « Adonai » (« Đức Chúa »), còn trong trò chuyện thì thay thế bằng HaShem (« Danh »).
Anita S. Bourdin
(Bản dịch của Ban Biên Tập trang Web UBKT)
http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=918
Thiên Chúa Không Tên Và Thiên Chúa có Nhiều Tên
Xét dưới khía cạnh ''biểu lộ'' và ''tương quan'' Thiên chúa quả thực là Ðấng Hữu Danh, và tên riêng của Người trong Kinh Thánh Cựu ước là ''Giavê Thiên Chúa"
Nhưng xét dưới khía cạnh khác, Thiên Chúa không có tên như con người. Thiên Chúa là Ðấng Vô Danh. Lý do là vì tên của con ngườI thường do người khác đặt cho để công nhận sự hiện hữu ở đời của họ.
Dù sao, việc đặt tên cũng một phần mang ý nghĩa "xác định" và rất thường xuyên có sắc thái "làm chủ", hay ít nữa nói lên một tương quan uy quyền: Adam đặt tên cho các súc vật; cha mẹ đặt tên cho con cái. Tên chung nói lên yếu tính của sự vật mà con người khám phá hay gán cho; tên riêng ám chỉ "cá vị tính" của con người hay súc vật.
Xét dưới khía cạnh này, không ai có thể đặt tên cho Thiên Chúa, vì không ai có quyền trên Thiên Chúa. Không ai biết được yếu tính của Thiên Chúa như yếu tính của sự vật, vì thế không thể gán cho Người một Danh xưng nào cả. Tên đích thực của Thiên Chúa là "Không Tên" (Danh khả danh phi Thường Danh). Nói cho chính xác hơn, Thiên Chúa là Ðấng không thể đặt tên (L' Innommmable).
Thái độ không dám kêu tên Thiên Chúa vô cớ mà Kinh Thánh Cựu ước có đề cập tới là thái độ của con người thụ tạo nhỏ bé không dám xúc phạm tới Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đòi hỏi như thế. Người cấm không được nhân Danh Người mà thề.
Trong Cựu ước có nhiều chỗ nói rõ việc Thiên Chúa từ chối không cho biết tên :
- Sau khi đã chiến đấu với Thiên Chúa, Giacóp xin biết tên Người, nhưng Người đáp : ''Ngươi hỏi Danh Ta làm gì ?'' (St 32,20)
- Manôakh, thân phụ của Samson cũng đã hỏi tên ''Thần Sứ Giavê'' hiện ra với vợ chồng ông, nhưng Thần Sứ Giavê đáp :''Tại sao lại hỏi tên tôi ? Một điều thần diệu!" (Tl 13,18)
Các Giáo phụ cũng ý thức rõ rệt tính siêu việt của Thiên Chúa, nên vẫn cho rằng không có tên nào xứng đáng với Thiên Chúa.
Danh Thiên Chúa thật là khôn tả, vượt trên mọi danh hiệu. Thực tại của Người vượt trên mọi thực tại, yếu tính của Người vượt trên mọi yếu tính. Hữu thể của Người vượt trên mọi hữu thể. Nói theo kiểu của Pseudo Denys, Người là yếu tính phi- yếu- tính, là Hữu thể phi-hữu-thể, là Thực tại phi-thực-tại. Chính vì thế mà có một số nhà hiền triết gọi Ðấng Tuyết Ðối mà họ đi tìm là ''Cái Không viên mãn''. Một số nhà thần bí Kitô-giáo như Augustinô, Jean de la Croix gọi Thiên Chúa là ''Hố Thẳm'' (Abyssus) : Hố thẳm Tình yêu, Hố thẳm Trí tuệ, Hố thẳm Thiện hảo...
Người là Ðấng không Tên, nhưng cũng là Ðấng có rất nhiều Tên, vì sự viên mãn phú túc của Người cần được diễn đạt dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Người là Khởi nguyên và là Cùng đích của mọi thực tại. Người là Sự Sống, là Phục sinh cho những ai cần sự sống. Người là Ðá tảng cho những ai cần nương tựa. Người là Bình an cho những ai cần an bình. Người là Ánh sáng cho những ai cần ánh sáng. Người là ''Duy nhất đơn thuần'' có thể hội nhập mọi sự trong Người. Người là Chân lý cho những ai đi tìm chân lý, là Thiện hảo cho nhưng ai đi tìm thiện hảo. Người là vẻ đẹp vô biên vượt trên mọi vẻ đẹp. Người là Quyền năng vượt trên mọi quyền năng. Người là Trí tuệ vượt trên mọi trí tuệ. Người là Tình yêu nguồn suối mọi tình yêu. NgườI là Vua các vua, Chúa các chúa...
Tất cả những Danh xưng trên đều có trong Kinh Thánh và diễn tả các ưu phẩm của Thiên Chúạ Danh xưng nào cũng phù hợp với Người vì trong Người mọi sự đều có.
Trong Tân Ước, tên đặc biệt của Thiên Chúa là ''Cha" : Cha của Ðức Giêsu và Cha của chúng ta. Cũng như Giavê trong Cựu ước có thể có mọi Danh xưng tích cực và các Danh xưng này đều hàm chứa trong ''Danh Giavê'', trong Tân ước, Chúa Cha cũng có mọi Danh xưng hàm chứa trong từ ''Chúa Cha".
Chúa Con, Ðấng mạc khải trọn vẹn Chúa Cha, là Lời của Chúa Cha, là ''Tên'' của Chúa Cha, cũng có mọi Danh xưng như Chúa Cha, trừ tên Chúa Cha. Tân ước và đặc biệt là Phaolô đã dùng từ ''Theos'' để gọi Chúa Cha và từ ''Kurios'' để gọi Ðức Kitô Phục Sinh.
Theo Phúc âm Gioan, Ðức Giêsu Kitô, ngay từ lúc còn tại thế, đã xưng mình "là Ðường, là sự Thật và là sự sống''. Ðó là những Danh xưng và ưu phẩm áp dụng cho Thiên Chúa, và Ðức Giêsu đã dùng để áp dụng cho chính mình. Vì thế các môn đệ và nhất là những người Do thái chưa hiểu được Người trước khi Người sống lại. Nhưng khi Người đã phục sinh từ cõi chết, thì quả thực Tên Thánh Giêsu hàm chứa hết mọi Danh xưng có thể áp dụng được cho Thiên Chúa. Và khi nghe Tên Thánh Chúa Giêsu, các tầng trời bừng sáng, các tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run. Cũng như Thiên Chúa Cha, Người là Vua Các vua, Chúa các chúa. Và bất cứ ai kêu Danh Thánh Người, Chắc chắn sẽ được cứu rỗi.
IV. Danh Giavê Và Ðức Kitô
Mặc dù Danh Giavê có vai trò tối quan trọng trong lịch sử dân Chúa, và ai kêu cầu Danh Giavê sẽ được cứu rỗi. Danh ấy vẫn còn trên bình diện ''ý hướng'', nghĩa là hướng con người đến Thiên Chúa, gợi ra hình ảnh sống động về Thiên Chúa, mờI gọi tin vào Thiên Chúa hay trở về với Thiên Chúa. Nhưng Danh ấy chưa thành thực tại, chưa ''nhập thể'' hay nói cho chính xác hơn, nhập thể chưa trọn vẹn và còn đang trên tiến trình nhập thể.
Chấp nhận mang tên tuy đã là một hình thái nhập thể rồi. Nhưng hệ lụy cuối cùng của việc chấp nhận mang tên phải là nhập thể trọn vẹn. Danh Thiên Chúa phải trở thành người để việc Thiên Chúa cư ngụ giữa loài ngườI trở nên trọn vẹn. Nếu trong Cựu ước, Danh Thiên Chúa đóng vai trò thiết lập tương giao giữa Thiên Chúa với loài người, thì trong Tân ước, chính Ðức Giêsu Kitô đã đóng vai trò này một cách hoàn hảo. Nếu trong Cựu ước, Danh Giavê là bảo chứng phần rỗi cho dân Chúa, thì trong Tân ước, chính Ðức Giêsu là ơn cứu rỗI; Người là Sự Sống, là Phục Sinh, là Giải thoát.
1. Ðối với đức tin của Israel, Danh Giavê đóng vai trò mạc khải để dân có thể nhận biết Thiên Chúa.
Danh Giavê là'' Mạc khải khởi đầu về chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và một phần về huyền nhiệm của Người. Ðức Kitô là Ðấng mạc khải trọn vẹn chương trình của Thiên Chúa và còn là Ðấng thực thi chương trình ấy. Người cũng mạc khải hoàn toàn huyền nhiệm của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa hiện thân : ''Ai thấy Ta tức là thấy Cha" (Ga 14,19).
Theo truyền thống Êlôhít, Giavê có nghĩa ''Ta là'', Ta có''. Theo phúc âm Gioan, Ðức Giêsu đã đồng hóa mình với Danh xưng thần diệu này : Người dùng từ ''Eimí' mà bản LXX dùng để dịch chữ ''Ehyeh'' :
''Ta đã nói với các ngươi : Các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươí. Vì nếu các ngươi không tin: Chính là Ta, các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươí' (Ga 8,24).
''Khi các ngươi nhắc Con Người lên cao, bấy giờ các ngươi sẽ biết : chính là Ta. Và tự Ta, Ta không làm gì; nhưng Cha Ta đã dậy Ta làm sao, Ta nói vậy" (Ga 8,28).
''Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : trước khi có Abraham, Ta, chính là Ta" (Ga 8,58).
''Ngay từ lúc này, Ta nói với các ngươi trước sự xảy ra, ngõ hầu khi đã xảy đến, các ngươi tin : ''chính là Ta" (Ga 13,19).
Ðức Kitô là lời giải đáp trọn hảo cho câu hỏi của Môsê trong sách Xuất hành 3,13.
Truyền thống Ðavít nối kết Danh Giavê với mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa. Gioan nhấn mạnh rằng Ðức Kitô chính là mạc khải đích thực và trọn vẹn Tình Yêu của Thiên Chúa :
''Anh em thân mến, ta hãy yêu thương nhau, vì lòng mến phát tự Thiên Chúa và phàm ai yêu mến thì đã sinh bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến thì đã không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là lòng mến. Nơi điều này mà lòng mến của Thiên Chúa đã hiện tỏ nơi chúng ta : là Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến trong thế Gian, ngõ hầu ta được sống nhờ Ngài. Nơi điều này mà thực là lòng mến : là không phải vì ta đã yêu Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu mến ta, và sai Con của Người đến là hi sinh đền tạ tội lỗi ta" (Ga 4,7-10).
Có thể so sánh biến cố thần hiển ở Sinai với sự biến hình của Ðức Kitô trên núi Tabor.
Theo truyền thống Tư Tế (P), Danh Giavê là nền tảng Giao ước Sinai. Theo Tân ước, Chính Con Người Ðức Kitô là nền tảng Giao ước mới mà Lề Luật là Ðức Ái và nội dung Lời hứa là sự Sống đời đời.
2. Vai trò thứ hai của Danh Giavê là ''phương thế'' để yêu cầu Thiên Chúa và là ''bảo chứng'' được Thiên Chúa nhận lời. Israel mới hay là Giáo hội không còn cầu nguyện nhân danh Giavê nữa, nhưng cầu nguyện nhân Danh Ðức Kitô Giêsu. Ðiều này không có nghĩa là thay thế tên Giêsu vào chỗ tên Giavê; nhưng con người và cuộc sống của Ðức Giêsu chính là Danh Giavê hiện thân. Chính con người Ðức Kitô là phương thế Trung Gian để chúng ta có thể khẩn cầu Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận lời :
''Xin chư vị hết thảy cùng toàn dân Israel biết rằng : chính là nhân Danh Ðức Giêsu Kitô ngườI Nazareth, ngườI mà các ông đã cho đóng đinh thập giá, nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại từ cõi chết, chính nhân Danh ấy mà ngườI này được đứng trước mặt các ông an lành mạnh khỏe. Chính Ngài là viên đá đã bị các ông là thợ xây khinh màng, thì đã hóa thành đỉnh góc. Và hẳn không có ơn cứu độ nơi một ngườI nào khác nữa, vì dướI gầm trờI này, không có một Danh nào khác được ban cho nhân loại dể phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được cứu thoát'' (Cv 4,10-14)
3. Danh Giavê tượng trưng và biểu lộ vinh quang Giavê cho Israel và các dân tộc. Làm vinh danh Người là hoàn tất chương trình cứu độ. Ðiều này Ðức Giêsu Kitô cũng đã thực hiện trong chính con người và cuộc sống của Ngài. Khi so sánh Ga, 28 với Ga 17,1 chúng ta thấy rõ Gioan đồng hóa Danh Thiên Chúa với chính con người Ðức Giêsu Kitô :
''Lạy Cha hãy tôn vinh Danh Cha! Bãy giờ có tiếng từ trờI đến : ''Ta đã tôn vinh Danh Ta, và Ta sẽ lại tôn vinh'' (Ga 12,28).
''Lạy Cha, giờ đã đến! Xin hãy tôn vinh Con Cha, nhõ hầu Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 7,1).
Nói tóm lại, yếu tố thánh thiện và cơ bản nhất của đời sống tôn giáo của Israel là Danh Giavê, đã được hoàn tất viên mãn trong mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ðức Kitô là Danh Thiên chúa nhập thể, vì NgườI là Lời nhập thể. Lời không gì khác hơn là Danh, giải thích Danh và làm cho Danh trở thành thực tại, làm cho Danh được thể hiện và được cả sáng.
Theo Pl 2,9, Ðức Kitô đã nhận lãnh từ Thiên chúa ''Danh Hiệú"vượt trên mọi danh hiệu. Người được gọi là Kurios, nghĩa là Chúa (từ ngữ bản LXX dùng để ám chỉ Giavê). Theo cách nói Sêmít, Người nhận lãnh Danh hiệu Chúa đồng nghĩa với ''Người là Chú".
Ðức Kitô không những chỉ là Thiên chúa hiện thân , là Ngôi Lời nhập thể. Ngài còn là con người biết khẩn cầu Danh Thiên Chúa. Ngài là Thượng tế trọn hảo của Giao ước mới, Ngài là con người thờ phượng đẹp lòng Chúa Cha hơn cả. Tất cả đời sống của Ngài là một Lời cầu nguyện, là Hy Tế Tình yêu. Ngài là con người thực hiện trọn vẹn ý Cha dưới đất cũng như trên trời.
Ðức Giêsu đã cầu nguyện xin Chúa Cha cho Ngài khỏi chết : ''Vào những ngày còn trong thân xác, Ngài đã dâng lên cho Ðấng có thể cứu Ngài khỏi chết, những lời cầu xin khẩn nguyện với lớn tiếng kêu van cùng nước mắt, và Ngài đã được nhận lời thoát khỏi sợ hãí' (Dt 5,7).
Lời cầu nguyện thống thiết và đầy nước mắt của Ngài trong vườn Cây Dầu đã đưa đến ơn cứu độ và sự phục sinh cho con người. Con người chỉ có thể được cứu độ, nếu biết kêu cầu Chúa Cha trong Ngài và với Ngài, vì chỉ có Ngài là Thượng Tế trọn hảo.
Muốn kêu cầu Chúa Cha trong Ðức Kitô hay nhân Danh Ðức Kitô, trước tiên phải tin tưởng ở Ngài và kêu cầu Danh Ngài. Kêu cầu Danh Ngài cũng là kêu cầu Chúa Cha, vì Chúa Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Chúa Cha.
Không ai có thể gọi Ðức Giêsu là Chúa, nếu không do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Do đó việc kêu cầu Chúa Thánh Thần cũng là điều không thể thiếu trong đờI sống kitô-hữu. Nói theo kiểu của Giáo phụ Irênê, Thánh Thần dẫn ta tới Chúa Kitô và Chúa Kitô trình diện ta với Thiên Chúa Cha. Như thế, chúng ta kêu cầu cả Ba, hay nói đúng hơn, chúng ta kêu cầu Danh Chúa Cả Ba Ngôi : nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/tcmackhai.html
Không được đọc ''Giavê'' nữa : Thượng Hội Đồng Giám Mục chấp nhận quy định này
Một bức thư của Thánh Bộ Rôma về Phụng vụ.
RÔMA, Thứ sáu, 24-10-2008 (ZENIT.org) – Do tôn kính Tên của Thiên Chúa, vì Truyền thống của Hội Thánh, vì Dân tộc Do-thái, và vì những lý do ngữ học, nay không được xưng Tên của Thiên Chúa ra bằng kiểu đọc «Giavê » nữa.
THĐGM về Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Hội Thánh đã đưa ra thực hành quy định này của Thánh Bộ Rôma về phượng tự, vì - « do chỉ thị của Đức Thánh Cha » - Thánh Bộ này yêu cầu không dùng cách chuyển tự bốn phụ âm Híp-ri nữa - « Tứ linh tự » - được đọc thành « Giavê » (Yahvé hoặc Yahweh) trong các bản dịch, « các cuộc cử hành phụng vụ , trong các bài thánh ca, và trong các lời cầu nguyện » của Hội Thánh Công giáo.
Đây là điều mà vào buổi sáng hôm nay, tại Vatican, Đức Cha Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng về văn hóa, chuyên viên Kinh Thánh, và chủ tịch Ủy ban soạn thảo Sứ điệp của THĐGM, đã cho biết rồi giới thiệu tin tức này cho giới báo chí, và trả lời các câu hỏi của các nhà báo.
Khi Zenit hỏi về điểm này, Đức Cha Ravasi đã cho biết rằng một vài thành viên của THĐGM đã dùng từ đó và thế là người ta đã nhắc lại quy định mới. Đức Cha Ravasi đã nêu bật tầm quan trọng của việc tôn trọng cách dùng của cộng đồng Do-thái về điểm này và ngài đã đưa ra các lý do ngữ học.
Quả thật, bốn con chữ Hip-ri để diễn tên Thiên Chúa, đã được mạc khải cho Môsê (x. Xh 3), là bốn phụ âm, « Tứ linh tự » (Yod-Heh-Waw-Heh, thường được chuyển tự ra theo bảng chữ cái [ngoại quốc] là: IHWH). Bốn phụ âm này không được đọc ra bởi vì người ta không biết nó được diễn ra thành âm như thế nào. Hoặc đúng hơn, trong truyền thống Cựu Ước, tên Thiên Chúa không được đọc ra.
Chỉ có vị thượng tế có thể xướng lên, mỗi năm một lần, khi ngài vào trong Gian Cực Thánh của Đền thờ Giêrusalem. Như thế cách phát âm đã được giữ kín rồi bị mất đi. Một số người còn gợi ý là tên này chưa bao giờ được đọc thành âm cả, vì không một ai có thể cho rằng mình nắm được Thiên Chúa nhờ xướng được Tên của Người.
Sách Huấn ca chẳng hạn nói về thượng tế Simôn rằng : « Bấy giờ ông bước xuống, giơ tay trên toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và đọc lời chúc lành của Đức Chúa ; như thế ông được vinh dự xướng lên Thánh Danh Người » (Huấn ca, ch. 50, c. 20).
Đức Cha Ravasi đã nhắc lại rằng truyền thống Kinh thánh Hípri bằng tiếng Hy-lạp do « Bảy Mươi » hiền giả Do-thái (72 dịch giả vào khoảng năm 270 tr. C.G.), đã thay thế Tứ linh tự bằng từ Hy-lạp « Kyrios », có nghĩa là « Đức Chúa ». Bản dịch « Vetus latina » và Bản « Vulgata » của thánh Giêrônimô đã dịch là « Dominus » « Đức Chúa », như văn kiện của Thánh Bộ Rôma đã nhắc lại và do đó yêu cầu trở lại với cách đọc « Đức Chúa , mỗi khi bản văn dùng Tứ linh tự.
Trong Thư gửi các Hội Đồng Giám Mục thế giới mà nói về Tên Thiên Chúa, Thánh Bộ phượng tư và kỷ luật bí tích đã yêu cầu loại bỏ cách chuyển tự trên trong cách sách được dùng mà đọc trong Phụng vụ.
Văn kiện này, được ban ngày 29-6-2008, đã được công bố trong tạp chí « Notitiae » của Thánh Bộ. Văn kiện mang chữ ký của Tổng Trưởng Thánh Bộ, Đức HY Francis Arinze, và Đức Giám Mục Albert Malcom Ranjith, thư ký của cơ quan này.
Thánh Bộ nhắc lại văn kiện của mình là « Liturgiam Authenticam » năm 2001, nói về các bản dịch phụng vụ, trong đó có yêu cầu « tên của Thiên Chúa toàn năng », được diễn ta bằng « tứ linh tự Hípri » và tiếng La-tinh là « Dominus », phải được diễn ra « trong các ngôn ngữ địa phương » bằng một từ « tương đương ».
Thế nhưng cách thực hành đã phổ biến là « xướng tên của Thiên Chúa Israel », là phát âm khi đọc các bản văn Kinh thánh của các sách Bài đọc phụng vụ, nhưng cả trong các thánh thi và các lời cầu nguyện, là « Giavê » (« Yahweh », « Jahweh » hoặc « Yehovah ».
Bên Pháp, các bản văn phụng vụ không dùng kiểu phát âm là « Giavê », nhưng cách đọc này xuất hiện trong các bản dịch Kinh Thánh - mà các bản dịch này thì không phải là chuẩn mực cho phụng vụ » - hoặc trong các thánh ca.
Sau một phần biện luận rút từ Kinh Thánh, văn kiện khẳng định : « Vậy việc bỏ đọc tứ linh tự của tên Thiên Chúa từ phía Hội Thánh có lý hữu của nó. Ngoài một lý do thuần túy ngữ học, cũng có lý do là trung thành với truyền thống Hội Thánh, bởi vì tứ linh tự[1] chưa báo giờ được xướng trong bối cảnh Kitô giáo, hoặc dịch ra trong bất cứ ngôn ngữ nào người ta dùng để dịch Kinh Thánh ».
Các trào lưu khác của Do-thái giáo hiện đại duy trì truyền thống này là Tứ linh tự chỉ có thể được xướng lên bởi vị Thượng Tế trong Đền thờ mà thôi, và ngay vị này cũng thường chỉ xướng Tứ linh tự vào Yom Kippour (Ngày đại lễ Xá Tội) mà thôi.
Vì Đền thờ Giêrusalem đã bị tàn phá rồi, Tên này chẳng bao giờ còn được người Do-thái xướng lên khi cử hành các nghi thức tôn giáo, hoặc trong các cuộc trò chuyện riêng tư. Trong kinh nguyện, Tứ linh tự được thay thế bằng « Adonai » (« Đức Chúa »), còn trong trò chuyện thì thay thế bằng HaShem (« Danh »).
Anita S. Bourdin
(Bản dịch của Ban Biên Tập trang Web UBKT)
http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=918
Thiên Chúa Không Tên Và Thiên Chúa có Nhiều Tên
Xét dưới khía cạnh ''biểu lộ'' và ''tương quan'' Thiên chúa quả thực là Ðấng Hữu Danh, và tên riêng của Người trong Kinh Thánh Cựu ước là ''Giavê Thiên Chúa"
Nhưng xét dưới khía cạnh khác, Thiên Chúa không có tên như con người. Thiên Chúa là Ðấng Vô Danh. Lý do là vì tên của con ngườI thường do người khác đặt cho để công nhận sự hiện hữu ở đời của họ.
Dù sao, việc đặt tên cũng một phần mang ý nghĩa "xác định" và rất thường xuyên có sắc thái "làm chủ", hay ít nữa nói lên một tương quan uy quyền: Adam đặt tên cho các súc vật; cha mẹ đặt tên cho con cái. Tên chung nói lên yếu tính của sự vật mà con người khám phá hay gán cho; tên riêng ám chỉ "cá vị tính" của con người hay súc vật.
Xét dưới khía cạnh này, không ai có thể đặt tên cho Thiên Chúa, vì không ai có quyền trên Thiên Chúa. Không ai biết được yếu tính của Thiên Chúa như yếu tính của sự vật, vì thế không thể gán cho Người một Danh xưng nào cả. Tên đích thực của Thiên Chúa là "Không Tên" (Danh khả danh phi Thường Danh). Nói cho chính xác hơn, Thiên Chúa là Ðấng không thể đặt tên (L' Innommmable).
Thái độ không dám kêu tên Thiên Chúa vô cớ mà Kinh Thánh Cựu ước có đề cập tới là thái độ của con người thụ tạo nhỏ bé không dám xúc phạm tới Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đòi hỏi như thế. Người cấm không được nhân Danh Người mà thề.
Trong Cựu ước có nhiều chỗ nói rõ việc Thiên Chúa từ chối không cho biết tên :
- Sau khi đã chiến đấu với Thiên Chúa, Giacóp xin biết tên Người, nhưng Người đáp : ''Ngươi hỏi Danh Ta làm gì ?'' (St 32,20)
- Manôakh, thân phụ của Samson cũng đã hỏi tên ''Thần Sứ Giavê'' hiện ra với vợ chồng ông, nhưng Thần Sứ Giavê đáp :''Tại sao lại hỏi tên tôi ? Một điều thần diệu!" (Tl 13,18)
Các Giáo phụ cũng ý thức rõ rệt tính siêu việt của Thiên Chúa, nên vẫn cho rằng không có tên nào xứng đáng với Thiên Chúa.
Danh Thiên Chúa thật là khôn tả, vượt trên mọi danh hiệu. Thực tại của Người vượt trên mọi thực tại, yếu tính của Người vượt trên mọi yếu tính. Hữu thể của Người vượt trên mọi hữu thể. Nói theo kiểu của Pseudo Denys, Người là yếu tính phi- yếu- tính, là Hữu thể phi-hữu-thể, là Thực tại phi-thực-tại. Chính vì thế mà có một số nhà hiền triết gọi Ðấng Tuyết Ðối mà họ đi tìm là ''Cái Không viên mãn''. Một số nhà thần bí Kitô-giáo như Augustinô, Jean de la Croix gọi Thiên Chúa là ''Hố Thẳm'' (Abyssus) : Hố thẳm Tình yêu, Hố thẳm Trí tuệ, Hố thẳm Thiện hảo...
Người là Ðấng không Tên, nhưng cũng là Ðấng có rất nhiều Tên, vì sự viên mãn phú túc của Người cần được diễn đạt dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Người là Khởi nguyên và là Cùng đích của mọi thực tại. Người là Sự Sống, là Phục sinh cho những ai cần sự sống. Người là Ðá tảng cho những ai cần nương tựa. Người là Bình an cho những ai cần an bình. Người là Ánh sáng cho những ai cần ánh sáng. Người là ''Duy nhất đơn thuần'' có thể hội nhập mọi sự trong Người. Người là Chân lý cho những ai đi tìm chân lý, là Thiện hảo cho nhưng ai đi tìm thiện hảo. Người là vẻ đẹp vô biên vượt trên mọi vẻ đẹp. Người là Quyền năng vượt trên mọi quyền năng. Người là Trí tuệ vượt trên mọi trí tuệ. Người là Tình yêu nguồn suối mọi tình yêu. NgườI là Vua các vua, Chúa các chúa...
Tất cả những Danh xưng trên đều có trong Kinh Thánh và diễn tả các ưu phẩm của Thiên Chúạ Danh xưng nào cũng phù hợp với Người vì trong Người mọi sự đều có.
Trong Tân Ước, tên đặc biệt của Thiên Chúa là ''Cha" : Cha của Ðức Giêsu và Cha của chúng ta. Cũng như Giavê trong Cựu ước có thể có mọi Danh xưng tích cực và các Danh xưng này đều hàm chứa trong ''Danh Giavê'', trong Tân ước, Chúa Cha cũng có mọi Danh xưng hàm chứa trong từ ''Chúa Cha".
Chúa Con, Ðấng mạc khải trọn vẹn Chúa Cha, là Lời của Chúa Cha, là ''Tên'' của Chúa Cha, cũng có mọi Danh xưng như Chúa Cha, trừ tên Chúa Cha. Tân ước và đặc biệt là Phaolô đã dùng từ ''Theos'' để gọi Chúa Cha và từ ''Kurios'' để gọi Ðức Kitô Phục Sinh.
Theo Phúc âm Gioan, Ðức Giêsu Kitô, ngay từ lúc còn tại thế, đã xưng mình "là Ðường, là sự Thật và là sự sống''. Ðó là những Danh xưng và ưu phẩm áp dụng cho Thiên Chúa, và Ðức Giêsu đã dùng để áp dụng cho chính mình. Vì thế các môn đệ và nhất là những người Do thái chưa hiểu được Người trước khi Người sống lại. Nhưng khi Người đã phục sinh từ cõi chết, thì quả thực Tên Thánh Giêsu hàm chứa hết mọi Danh xưng có thể áp dụng được cho Thiên Chúa. Và khi nghe Tên Thánh Chúa Giêsu, các tầng trời bừng sáng, các tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run. Cũng như Thiên Chúa Cha, Người là Vua Các vua, Chúa các chúa. Và bất cứ ai kêu Danh Thánh Người, Chắc chắn sẽ được cứu rỗi.
IV. Danh Giavê Và Ðức Kitô
Mặc dù Danh Giavê có vai trò tối quan trọng trong lịch sử dân Chúa, và ai kêu cầu Danh Giavê sẽ được cứu rỗi. Danh ấy vẫn còn trên bình diện ''ý hướng'', nghĩa là hướng con người đến Thiên Chúa, gợi ra hình ảnh sống động về Thiên Chúa, mờI gọi tin vào Thiên Chúa hay trở về với Thiên Chúa. Nhưng Danh ấy chưa thành thực tại, chưa ''nhập thể'' hay nói cho chính xác hơn, nhập thể chưa trọn vẹn và còn đang trên tiến trình nhập thể.
Chấp nhận mang tên tuy đã là một hình thái nhập thể rồi. Nhưng hệ lụy cuối cùng của việc chấp nhận mang tên phải là nhập thể trọn vẹn. Danh Thiên Chúa phải trở thành người để việc Thiên Chúa cư ngụ giữa loài ngườI trở nên trọn vẹn. Nếu trong Cựu ước, Danh Thiên Chúa đóng vai trò thiết lập tương giao giữa Thiên Chúa với loài người, thì trong Tân ước, chính Ðức Giêsu Kitô đã đóng vai trò này một cách hoàn hảo. Nếu trong Cựu ước, Danh Giavê là bảo chứng phần rỗi cho dân Chúa, thì trong Tân ước, chính Ðức Giêsu là ơn cứu rỗI; Người là Sự Sống, là Phục Sinh, là Giải thoát.
1. Ðối với đức tin của Israel, Danh Giavê đóng vai trò mạc khải để dân có thể nhận biết Thiên Chúa.
Danh Giavê là'' Mạc khải khởi đầu về chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và một phần về huyền nhiệm của Người. Ðức Kitô là Ðấng mạc khải trọn vẹn chương trình của Thiên Chúa và còn là Ðấng thực thi chương trình ấy. Người cũng mạc khải hoàn toàn huyền nhiệm của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa hiện thân : ''Ai thấy Ta tức là thấy Cha" (Ga 14,19).
Theo truyền thống Êlôhít, Giavê có nghĩa ''Ta là'', Ta có''. Theo phúc âm Gioan, Ðức Giêsu đã đồng hóa mình với Danh xưng thần diệu này : Người dùng từ ''Eimí' mà bản LXX dùng để dịch chữ ''Ehyeh'' :
''Ta đã nói với các ngươi : Các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươí. Vì nếu các ngươi không tin: Chính là Ta, các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươí' (Ga 8,24).
''Khi các ngươi nhắc Con Người lên cao, bấy giờ các ngươi sẽ biết : chính là Ta. Và tự Ta, Ta không làm gì; nhưng Cha Ta đã dậy Ta làm sao, Ta nói vậy" (Ga 8,28).
''Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : trước khi có Abraham, Ta, chính là Ta" (Ga 8,58).
''Ngay từ lúc này, Ta nói với các ngươi trước sự xảy ra, ngõ hầu khi đã xảy đến, các ngươi tin : ''chính là Ta" (Ga 13,19).
Ðức Kitô là lời giải đáp trọn hảo cho câu hỏi của Môsê trong sách Xuất hành 3,13.
Truyền thống Ðavít nối kết Danh Giavê với mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa. Gioan nhấn mạnh rằng Ðức Kitô chính là mạc khải đích thực và trọn vẹn Tình Yêu của Thiên Chúa :
''Anh em thân mến, ta hãy yêu thương nhau, vì lòng mến phát tự Thiên Chúa và phàm ai yêu mến thì đã sinh bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến thì đã không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là lòng mến. Nơi điều này mà lòng mến của Thiên Chúa đã hiện tỏ nơi chúng ta : là Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến trong thế Gian, ngõ hầu ta được sống nhờ Ngài. Nơi điều này mà thực là lòng mến : là không phải vì ta đã yêu Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu mến ta, và sai Con của Người đến là hi sinh đền tạ tội lỗi ta" (Ga 4,7-10).
Có thể so sánh biến cố thần hiển ở Sinai với sự biến hình của Ðức Kitô trên núi Tabor.
Theo truyền thống Tư Tế (P), Danh Giavê là nền tảng Giao ước Sinai. Theo Tân ước, Chính Con Người Ðức Kitô là nền tảng Giao ước mới mà Lề Luật là Ðức Ái và nội dung Lời hứa là sự Sống đời đời.
2. Vai trò thứ hai của Danh Giavê là ''phương thế'' để yêu cầu Thiên Chúa và là ''bảo chứng'' được Thiên Chúa nhận lời. Israel mới hay là Giáo hội không còn cầu nguyện nhân danh Giavê nữa, nhưng cầu nguyện nhân Danh Ðức Kitô Giêsu. Ðiều này không có nghĩa là thay thế tên Giêsu vào chỗ tên Giavê; nhưng con người và cuộc sống của Ðức Giêsu chính là Danh Giavê hiện thân. Chính con người Ðức Kitô là phương thế Trung Gian để chúng ta có thể khẩn cầu Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận lời :
''Xin chư vị hết thảy cùng toàn dân Israel biết rằng : chính là nhân Danh Ðức Giêsu Kitô ngườI Nazareth, ngườI mà các ông đã cho đóng đinh thập giá, nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại từ cõi chết, chính nhân Danh ấy mà ngườI này được đứng trước mặt các ông an lành mạnh khỏe. Chính Ngài là viên đá đã bị các ông là thợ xây khinh màng, thì đã hóa thành đỉnh góc. Và hẳn không có ơn cứu độ nơi một ngườI nào khác nữa, vì dướI gầm trờI này, không có một Danh nào khác được ban cho nhân loại dể phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được cứu thoát'' (Cv 4,10-14)
3. Danh Giavê tượng trưng và biểu lộ vinh quang Giavê cho Israel và các dân tộc. Làm vinh danh Người là hoàn tất chương trình cứu độ. Ðiều này Ðức Giêsu Kitô cũng đã thực hiện trong chính con người và cuộc sống của Ngài. Khi so sánh Ga, 28 với Ga 17,1 chúng ta thấy rõ Gioan đồng hóa Danh Thiên Chúa với chính con người Ðức Giêsu Kitô :
''Lạy Cha hãy tôn vinh Danh Cha! Bãy giờ có tiếng từ trờI đến : ''Ta đã tôn vinh Danh Ta, và Ta sẽ lại tôn vinh'' (Ga 12,28).
''Lạy Cha, giờ đã đến! Xin hãy tôn vinh Con Cha, nhõ hầu Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 7,1).
Nói tóm lại, yếu tố thánh thiện và cơ bản nhất của đời sống tôn giáo của Israel là Danh Giavê, đã được hoàn tất viên mãn trong mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ðức Kitô là Danh Thiên chúa nhập thể, vì NgườI là Lời nhập thể. Lời không gì khác hơn là Danh, giải thích Danh và làm cho Danh trở thành thực tại, làm cho Danh được thể hiện và được cả sáng.
Theo Pl 2,9, Ðức Kitô đã nhận lãnh từ Thiên chúa ''Danh Hiệú"vượt trên mọi danh hiệu. Người được gọi là Kurios, nghĩa là Chúa (từ ngữ bản LXX dùng để ám chỉ Giavê). Theo cách nói Sêmít, Người nhận lãnh Danh hiệu Chúa đồng nghĩa với ''Người là Chú".
Ðức Kitô không những chỉ là Thiên chúa hiện thân , là Ngôi Lời nhập thể. Ngài còn là con người biết khẩn cầu Danh Thiên Chúa. Ngài là Thượng tế trọn hảo của Giao ước mới, Ngài là con người thờ phượng đẹp lòng Chúa Cha hơn cả. Tất cả đời sống của Ngài là một Lời cầu nguyện, là Hy Tế Tình yêu. Ngài là con người thực hiện trọn vẹn ý Cha dưới đất cũng như trên trời.
Ðức Giêsu đã cầu nguyện xin Chúa Cha cho Ngài khỏi chết : ''Vào những ngày còn trong thân xác, Ngài đã dâng lên cho Ðấng có thể cứu Ngài khỏi chết, những lời cầu xin khẩn nguyện với lớn tiếng kêu van cùng nước mắt, và Ngài đã được nhận lời thoát khỏi sợ hãí' (Dt 5,7).
Lời cầu nguyện thống thiết và đầy nước mắt của Ngài trong vườn Cây Dầu đã đưa đến ơn cứu độ và sự phục sinh cho con người. Con người chỉ có thể được cứu độ, nếu biết kêu cầu Chúa Cha trong Ngài và với Ngài, vì chỉ có Ngài là Thượng Tế trọn hảo.
Muốn kêu cầu Chúa Cha trong Ðức Kitô hay nhân Danh Ðức Kitô, trước tiên phải tin tưởng ở Ngài và kêu cầu Danh Ngài. Kêu cầu Danh Ngài cũng là kêu cầu Chúa Cha, vì Chúa Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Chúa Cha.
Không ai có thể gọi Ðức Giêsu là Chúa, nếu không do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Do đó việc kêu cầu Chúa Thánh Thần cũng là điều không thể thiếu trong đờI sống kitô-hữu. Nói theo kiểu của Giáo phụ Irênê, Thánh Thần dẫn ta tới Chúa Kitô và Chúa Kitô trình diện ta với Thiên Chúa Cha. Như thế, chúng ta kêu cầu cả Ba, hay nói đúng hơn, chúng ta kêu cầu Danh Chúa Cả Ba Ngôi : nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/tcmackhai.html
Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012
Có bao giờ
"Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?"
Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy. (Mt 25,37-40)
"Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi. Tôi đi tìm người anh em, tôi gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi.”
Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy. (Mt 25,37-40)
"Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi. Tôi đi tìm người anh em, tôi gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi.”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)