Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

Danh thánh

Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (Lc 6,9)

Không được đọc ''Giavê'' nữa : Thượng Hội Đồng Giám Mục chấp nhận quy định này

Một bức thư của Thánh Bộ Rôma về Phụng vụ.

RÔMA, Thứ sáu, 24-10-2008 (ZENIT.org) – Do tôn kính Tên của Thiên Chúa, vì Truyền thống của Hội Thánh, vì Dân tộc Do-thái, và vì những lý do ngữ học, nay không được xưng Tên của Thiên Chúa ra bằng kiểu đọc «Giavê » nữa.

THĐGM về Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Hội Thánh đã đưa ra thực hành quy định này của Thánh Bộ Rôma về phượng tự, vì - « do chỉ thị của Đức Thánh Cha » - Thánh Bộ này yêu cầu không dùng cách chuyển tự bốn phụ âm Híp-ri nữa - « Tứ linh tự » - được đọc thành « Giavê » (Yahvé hoặc Yahweh) trong các bản dịch, « các cuộc cử hành phụng vụ , trong các bài thánh ca, và trong các lời cầu nguyện » của Hội Thánh Công giáo.

Đây là điều mà vào buổi sáng hôm nay, tại Vatican, Đức Cha Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng về văn hóa, chuyên viên Kinh Thánh, và chủ tịch Ủy ban soạn thảo Sứ điệp của THĐGM, đã cho biết rồi giới thiệu tin tức này cho giới báo chí, và trả lời các câu hỏi của các nhà báo.

Khi Zenit hỏi về điểm này, Đức Cha Ravasi đã cho biết rằng một vài thành viên của THĐGM đã dùng từ đó và thế là người ta đã nhắc lại quy định mới. Đức Cha Ravasi đã nêu bật tầm quan trọng của việc tôn trọng cách dùng của cộng đồng Do-thái về điểm này và ngài đã đưa ra các lý do ngữ học.

Quả thật, bốn con chữ Hip-ri để diễn tên Thiên Chúa, đã được mạc khải cho Môsê (x. Xh 3), là bốn phụ âm, « Tứ linh tự » (Yod-Heh-Waw-Heh, thường được chuyển tự ra theo bảng chữ cái [ngoại quốc] là: IHWH). Bốn phụ âm này không được đọc ra bởi vì người ta không biết nó được diễn ra thành âm như thế nào. Hoặc đúng hơn, trong truyền thống Cựu Ước, tên Thiên Chúa không được đọc ra.

Chỉ có vị thượng tế có thể xướng lên, mỗi năm một lần, khi ngài vào trong Gian Cực Thánh của Đền thờ Giêrusalem. Như thế cách phát âm đã được giữ kín rồi bị mất đi. Một số người còn gợi ý là tên này chưa bao giờ được đọc thành âm cả, vì không một ai có thể cho rằng mình nắm được Thiên Chúa nhờ xướng được Tên của Người.

Sách Huấn ca chẳng hạn nói về thượng tế Simôn rằng : « Bấy giờ ông bước xuống, giơ tay trên toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và đọc lời chúc lành của Đức Chúa ; như thế ông được vinh dự xướng lên Thánh Danh Người » (Huấn ca, ch. 50, c. 20).

Đức Cha Ravasi đã nhắc lại rằng truyền thống Kinh thánh Hípri bằng tiếng Hy-lạp do « Bảy Mươi » hiền giả Do-thái (72 dịch giả vào khoảng năm 270 tr. C.G.), đã thay thế Tứ linh tự bằng từ Hy-lạp « Kyrios », có nghĩa là « Đức Chúa ». Bản dịch « Vetus latina » và Bản « Vulgata » của thánh Giêrônimô đã dịch là « Dominus » « Đức Chúa », như văn kiện của Thánh Bộ Rôma đã nhắc lại và do đó yêu cầu trở lại với cách đọc « Đức Chúa , mỗi khi bản văn dùng Tứ linh tự.
Trong Thư gửi các Hội Đồng Giám Mục thế giới mà nói về Tên Thiên Chúa, Thánh Bộ phượng tư và kỷ luật bí tích đã yêu cầu loại bỏ cách chuyển tự trên trong cách sách được dùng mà đọc trong Phụng vụ.

Văn kiện này, được ban ngày 29-6-2008, đã được công bố trong tạp chí « Notitiae » của Thánh Bộ. Văn kiện mang chữ ký của Tổng Trưởng Thánh Bộ, Đức HY Francis Arinze, và Đức Giám Mục Albert Malcom Ranjith, thư ký của cơ quan này.

Thánh Bộ nhắc lại văn kiện của mình là « Liturgiam Authenticam » năm 2001, nói về các bản dịch phụng vụ, trong đó có yêu cầu « tên của Thiên Chúa toàn năng », được diễn ta bằng « tứ linh tự Hípri » và tiếng La-tinh là « Dominus », phải được diễn ra « trong các ngôn ngữ địa phương » bằng một từ « tương đương ».

Thế nhưng cách thực hành đã phổ biến là « xướng tên của Thiên Chúa Israel », là phát âm khi đọc các bản văn Kinh thánh của các sách Bài đọc phụng vụ, nhưng cả trong các thánh thi và các lời cầu nguyện, là « Giavê » (« Yahweh », « Jahweh » hoặc « Yehovah ».

Bên Pháp, các bản văn phụng vụ không dùng kiểu phát âm là « Giavê », nhưng cách đọc này xuất hiện trong các bản dịch Kinh Thánh - mà các bản dịch này thì không phải là chuẩn mực cho phụng vụ » - hoặc trong các thánh ca.

Sau một phần biện luận rút từ Kinh Thánh, văn kiện khẳng định : « Vậy việc bỏ đọc tứ linh tự của tên Thiên Chúa từ phía Hội Thánh có lý hữu của nó. Ngoài một lý do thuần túy ngữ học, cũng có lý do là trung thành với truyền thống Hội Thánh, bởi vì tứ linh tự[1] chưa báo giờ được xướng trong bối cảnh Kitô giáo, hoặc dịch ra trong bất cứ ngôn ngữ nào người ta dùng để dịch Kinh Thánh ».

Các trào lưu khác của Do-thái giáo hiện đại duy trì truyền thống này là Tứ linh tự chỉ có thể được xướng lên bởi vị Thượng Tế trong Đền thờ mà thôi, và ngay vị này cũng thường chỉ xướng Tứ linh tự vào Yom Kippour (Ngày đại lễ Xá Tội) mà thôi.

Vì Đền thờ Giêrusalem đã bị tàn phá rồi, Tên này chẳng bao giờ còn được người Do-thái xướng lên khi cử hành các nghi thức tôn giáo, hoặc trong các cuộc trò chuyện riêng tư. Trong kinh nguyện, Tứ linh tự được thay thế bằng « Adonai » (« Đức Chúa »), còn trong trò chuyện thì thay thế bằng HaShem (« Danh »).

Anita S. Bourdin
(Bản dịch của Ban Biên Tập trang Web UBKT)
http://www.kinhthanhvn.org/viewItem.jhtml?itemId=918

Thiên Chúa Không Tên Và Thiên Chúa có Nhiều Tên

Xét dưới khía cạnh ''biểu lộ'' và ''tương quan'' Thiên chúa quả thực là Ðấng Hữu Danh, và tên riêng của Người trong Kinh Thánh Cựu ước là ''Giavê Thiên Chúa"

Nhưng xét dưới khía cạnh khác, Thiên Chúa không có tên như con người. Thiên Chúa là Ðấng Vô Danh. Lý do là vì tên của con ngườI thường do người khác đặt cho để công nhận sự hiện hữu ở đời của họ.

Dù sao, việc đặt tên cũng một phần mang ý nghĩa "xác định" và rất thường xuyên có sắc thái "làm chủ", hay ít nữa nói lên một tương quan uy quyền: Adam đặt tên cho các súc vật; cha mẹ đặt tên cho con cái. Tên chung nói lên yếu tính của sự vật mà con người khám phá hay gán cho; tên riêng ám chỉ "cá vị tính" của con người hay súc vật.

Xét dưới khía cạnh này, không ai có thể đặt tên cho Thiên Chúa, vì không ai có quyền trên Thiên Chúa. Không ai biết được yếu tính của Thiên Chúa như yếu tính của sự vật, vì thế không thể gán cho Người một Danh xưng nào cả. Tên đích thực của Thiên Chúa là "Không Tên" (Danh khả danh phi Thường Danh). Nói cho chính xác hơn, Thiên Chúa là Ðấng không thể đặt tên (L' Innommmable).

Thái độ không dám kêu tên Thiên Chúa vô cớ mà Kinh Thánh Cựu ước có đề cập tới là thái độ của con người thụ tạo nhỏ bé không dám xúc phạm tới Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng đòi hỏi như thế. Người cấm không được nhân Danh Người mà thề.

Trong Cựu ước có nhiều chỗ nói rõ việc Thiên Chúa từ chối không cho biết tên :
- Sau khi đã chiến đấu với Thiên Chúa, Giacóp xin biết tên Người, nhưng Người đáp : ''Ngươi hỏi Danh Ta làm gì ?'' (St 32,20)
- Manôakh, thân phụ của Samson cũng đã hỏi tên ''Thần Sứ Giavê'' hiện ra với vợ chồng ông, nhưng Thần Sứ Giavê đáp :''Tại sao lại hỏi tên tôi ? Một điều thần diệu!" (Tl 13,18)

Các Giáo phụ cũng ý thức rõ rệt tính siêu việt của Thiên Chúa, nên vẫn cho rằng không có tên nào xứng đáng với Thiên Chúa.

Danh Thiên Chúa thật là khôn tả, vượt trên mọi danh hiệu. Thực tại của Người vượt trên mọi thực tại, yếu tính của Người vượt trên mọi yếu tính. Hữu thể của Người vượt trên mọi hữu thể. Nói theo kiểu của Pseudo Denys, Người là yếu tính phi- yếu- tính, là Hữu thể phi-hữu-thể, là Thực tại phi-thực-tại. Chính vì thế mà có một số nhà hiền triết gọi Ðấng Tuyết Ðối mà họ đi tìm là ''Cái Không viên mãn''. Một số nhà thần bí Kitô-giáo như Augustinô, Jean de la Croix gọi Thiên Chúa là ''Hố Thẳm'' (Abyssus) : Hố thẳm Tình yêu, Hố thẳm Trí tuệ, Hố thẳm Thiện hảo...
Người là Ðấng không Tên, nhưng cũng là Ðấng có rất nhiều Tên, vì sự viên mãn phú túc của Người cần được diễn đạt dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Người là Khởi nguyên và là Cùng đích của mọi thực tại. Người là Sự Sống, là Phục sinh cho những ai cần sự sống. Người là Ðá tảng cho những ai cần nương tựa. Người là Bình an cho những ai cần an bình. Người là Ánh sáng cho những ai cần ánh sáng. Người là ''Duy nhất đơn thuần'' có thể hội nhập mọi sự trong Người. Người là Chân lý cho những ai đi tìm chân lý, là Thiện hảo cho nhưng ai đi tìm thiện hảo. Người là vẻ đẹp vô biên vượt trên mọi vẻ đẹp. Người là Quyền năng vượt trên mọi quyền năng. Người là Trí tuệ vượt trên mọi trí tuệ. Người là Tình yêu nguồn suối mọi tình yêu. NgườI là Vua các vua, Chúa các chúa...

Tất cả những Danh xưng trên đều có trong Kinh Thánh và diễn tả các ưu phẩm của Thiên Chúạ Danh xưng nào cũng phù hợp với Người vì trong Người mọi sự đều có.

Trong Tân Ước, tên đặc biệt của Thiên Chúa là ''Cha" : Cha của Ðức Giêsu và Cha của chúng ta. Cũng như Giavê trong Cựu ước có thể có mọi Danh xưng tích cực và các Danh xưng này đều hàm chứa trong ''Danh Giavê'', trong Tân ước, Chúa Cha cũng có mọi Danh xưng hàm chứa trong từ ''Chúa Cha".

Chúa Con, Ðấng mạc khải trọn vẹn Chúa Cha, là Lời của Chúa Cha, là ''Tên'' của Chúa Cha, cũng có mọi Danh xưng như Chúa Cha, trừ tên Chúa Cha. Tân ước và đặc biệt là Phaolô đã dùng từ ''Theos'' để gọi Chúa Cha và từ ''Kurios'' để gọi Ðức Kitô Phục Sinh.

Theo Phúc âm Gioan, Ðức Giêsu Kitô, ngay từ lúc còn tại thế, đã xưng mình "là Ðường, là sự Thật và là sự sống''. Ðó là những Danh xưng và ưu phẩm áp dụng cho Thiên Chúa, và Ðức Giêsu đã dùng để áp dụng cho chính mình. Vì thế các môn đệ và nhất là những người Do thái chưa hiểu được Người trước khi Người sống lại. Nhưng khi Người đã phục sinh từ cõi chết, thì quả thực Tên Thánh Giêsu hàm chứa hết mọi Danh xưng có thể áp dụng được cho Thiên Chúa. Và khi nghe Tên Thánh Chúa Giêsu, các tầng trời bừng sáng, các tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run. Cũng như Thiên Chúa Cha, Người là Vua Các vua, Chúa các chúa. Và bất cứ ai kêu Danh Thánh Người, Chắc chắn sẽ được cứu rỗi.

IV. Danh Giavê Và Ðức Kitô

Mặc dù Danh Giavê có vai trò tối quan trọng trong lịch sử dân Chúa, và ai kêu cầu Danh Giavê sẽ được cứu rỗi. Danh ấy vẫn còn trên bình diện ''ý hướng'', nghĩa là hướng con người đến Thiên Chúa, gợi ra hình ảnh sống động về Thiên Chúa, mờI gọi tin vào Thiên Chúa hay trở về với Thiên Chúa. Nhưng Danh ấy chưa thành thực tại, chưa ''nhập thể'' hay nói cho chính xác hơn, nhập thể chưa trọn vẹn và còn đang trên tiến trình nhập thể.

Chấp nhận mang tên tuy đã là một hình thái nhập thể rồi. Nhưng hệ lụy cuối cùng của việc chấp nhận mang tên phải là nhập thể trọn vẹn. Danh Thiên Chúa phải trở thành người để việc Thiên Chúa cư ngụ giữa loài ngườI trở nên trọn vẹn. Nếu trong Cựu ước, Danh Thiên Chúa đóng vai trò thiết lập tương giao giữa Thiên Chúa với loài người, thì trong Tân ước, chính Ðức Giêsu Kitô đã đóng vai trò này một cách hoàn hảo. Nếu trong Cựu ước, Danh Giavê là bảo chứng phần rỗi cho dân Chúa, thì trong Tân ước, chính Ðức Giêsu là ơn cứu rỗI; Người là Sự Sống, là Phục Sinh, là Giải thoát.

1. Ðối với đức tin của Israel, Danh Giavê đóng vai trò mạc khải để dân có thể nhận biết Thiên Chúa.
Danh Giavê là'' Mạc khải khởi đầu về chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và một phần về huyền nhiệm của Người. Ðức Kitô là Ðấng mạc khải trọn vẹn chương trình của Thiên Chúa và còn là Ðấng thực thi chương trình ấy. Người cũng mạc khải hoàn toàn huyền nhiệm của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa hiện thân : ''Ai thấy Ta tức là thấy Cha" (Ga 14,19).

Theo truyền thống Êlôhít, Giavê có nghĩa ''Ta là'', Ta có''. Theo phúc âm Gioan, Ðức Giêsu đã đồng hóa mình với Danh xưng thần diệu này : Người dùng từ ''Eimí' mà bản LXX dùng để dịch chữ ''Ehyeh'' :
''Ta đã nói với các ngươi : Các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươí. Vì nếu các ngươi không tin: Chính là Ta, các ngươi sẽ chết trong tội lỗi của các ngươí' (Ga 8,24).

''Khi các ngươi nhắc Con Người lên cao, bấy giờ các ngươi sẽ biết : chính là Ta. Và tự Ta, Ta không làm gì; nhưng Cha Ta đã dậy Ta làm sao, Ta nói vậy" (Ga 8,28).

''Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : trước khi có Abraham, Ta, chính là Ta" (Ga 8,58).

''Ngay từ lúc này, Ta nói với các ngươi trước sự xảy ra, ngõ hầu khi đã xảy đến, các ngươi tin : ''chính là Ta" (Ga 13,19).

Ðức Kitô là lời giải đáp trọn hảo cho câu hỏi của Môsê trong sách Xuất hành 3,13.

Truyền thống Ðavít nối kết Danh Giavê với mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa. Gioan nhấn mạnh rằng Ðức Kitô chính là mạc khải đích thực và trọn vẹn Tình Yêu của Thiên Chúa :

''Anh em thân mến, ta hãy yêu thương nhau, vì lòng mến phát tự Thiên Chúa và phàm ai yêu mến thì đã sinh bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến thì đã không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là lòng mến. Nơi điều này mà lòng mến của Thiên Chúa đã hiện tỏ nơi chúng ta : là Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến trong thế Gian, ngõ hầu ta được sống nhờ Ngài. Nơi điều này mà thực là lòng mến : là không phải vì ta đã yêu Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu mến ta, và sai Con của Người đến là hi sinh đền tạ tội lỗi ta" (Ga 4,7-10).

Có thể so sánh biến cố thần hiển ở Sinai với sự biến hình của Ðức Kitô trên núi Tabor.

Theo truyền thống Tư Tế (P), Danh Giavê là nền tảng Giao ước Sinai. Theo Tân ước, Chính Con Người Ðức Kitô là nền tảng Giao ước mới mà Lề Luật là Ðức Ái và nội dung Lời hứa là sự Sống đời đời.

2. Vai trò thứ hai của Danh Giavê là ''phương thế'' để yêu cầu Thiên Chúa và là ''bảo chứng'' được Thiên Chúa nhận lời. Israel mới hay là Giáo hội không còn cầu nguyện nhân danh Giavê nữa, nhưng cầu nguyện nhân Danh Ðức Kitô Giêsu. Ðiều này không có nghĩa là thay thế tên Giêsu vào chỗ tên Giavê; nhưng con người và cuộc sống của Ðức Giêsu chính là Danh Giavê hiện thân. Chính con người Ðức Kitô là phương thế Trung Gian để chúng ta có thể khẩn cầu Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận lời :

''Xin chư vị hết thảy cùng toàn dân Israel biết rằng : chính là nhân Danh Ðức Giêsu Kitô ngườI Nazareth, ngườI mà các ông đã cho đóng đinh thập giá, nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại từ cõi chết, chính nhân Danh ấy mà ngườI này được đứng trước mặt các ông an lành mạnh khỏe. Chính Ngài là viên đá đã bị các ông là thợ xây khinh màng, thì đã hóa thành đỉnh góc. Và hẳn không có ơn cứu độ nơi một ngườI nào khác nữa, vì dướI gầm trờI này, không có một Danh nào khác được ban cho nhân loại dể phải nhờ vào đó mà chúng ta trông được cứu thoát'' (Cv 4,10-14)

3. Danh Giavê tượng trưng và biểu lộ vinh quang Giavê cho Israel và các dân tộc. Làm vinh danh Người là hoàn tất chương trình cứu độ. Ðiều này Ðức Giêsu Kitô cũng đã thực hiện trong chính con người và cuộc sống của Ngài. Khi so sánh Ga, 28 với Ga 17,1 chúng ta thấy rõ Gioan đồng hóa Danh Thiên Chúa với chính con người Ðức Giêsu Kitô :

''Lạy Cha hãy tôn vinh Danh Cha! Bãy giờ có tiếng từ trờI đến : ''Ta đã tôn vinh Danh Ta, và Ta sẽ lại tôn vinh'' (Ga 12,28).

''Lạy Cha, giờ đã đến! Xin hãy tôn vinh Con Cha, nhõ hầu Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 7,1).

Nói tóm lại, yếu tố thánh thiện và cơ bản nhất của đời sống tôn giáo của Israel là Danh Giavê, đã được hoàn tất viên mãn trong mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ðức Kitô là Danh Thiên chúa nhập thể, vì NgườI là Lời nhập thể. Lời không gì khác hơn là Danh, giải thích Danh và làm cho Danh trở thành thực tại, làm cho Danh được thể hiện và được cả sáng.

Theo Pl 2,9, Ðức Kitô đã nhận lãnh từ Thiên chúa ''Danh Hiệú"vượt trên mọi danh hiệu. Người được gọi là Kurios, nghĩa là Chúa (từ ngữ bản LXX dùng để ám chỉ Giavê). Theo cách nói Sêmít, Người nhận lãnh Danh hiệu Chúa đồng nghĩa với ''Người là Chú".

Ðức Kitô không những chỉ là Thiên chúa hiện thân , là Ngôi Lời nhập thể. Ngài còn là con người biết khẩn cầu Danh Thiên Chúa. Ngài là Thượng tế trọn hảo của Giao ước mới, Ngài là con người thờ phượng đẹp lòng Chúa Cha hơn cả. Tất cả đời sống của Ngài là một Lời cầu nguyện, là Hy Tế Tình yêu. Ngài là con người thực hiện trọn vẹn ý Cha dưới đất cũng như trên trời.

Ðức Giêsu đã cầu nguyện xin Chúa Cha cho Ngài khỏi chết : ''Vào những ngày còn trong thân xác, Ngài đã dâng lên cho Ðấng có thể cứu Ngài khỏi chết, những lời cầu xin khẩn nguyện với lớn tiếng kêu van cùng nước mắt, và Ngài đã được nhận lời thoát khỏi sợ hãí' (Dt 5,7).

Lời cầu nguyện thống thiết và đầy nước mắt của Ngài trong vườn Cây Dầu đã đưa đến ơn cứu độ và sự phục sinh cho con người. Con người chỉ có thể được cứu độ, nếu biết kêu cầu Chúa Cha trong Ngài và với Ngài, vì chỉ có Ngài là Thượng Tế trọn hảo.

Muốn kêu cầu Chúa Cha trong Ðức Kitô hay nhân Danh Ðức Kitô, trước tiên phải tin tưởng ở Ngài và kêu cầu Danh Ngài. Kêu cầu Danh Ngài cũng là kêu cầu Chúa Cha, vì Chúa Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Chúa Cha.

Không ai có thể gọi Ðức Giêsu là Chúa, nếu không do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Do đó việc kêu cầu Chúa Thánh Thần cũng là điều không thể thiếu trong đờI sống kitô-hữu. Nói theo kiểu của Giáo phụ Irênê, Thánh Thần dẫn ta tới Chúa Kitô và Chúa Kitô trình diện ta với Thiên Chúa Cha. Như thế, chúng ta kêu cầu cả Ba, hay nói đúng hơn, chúng ta kêu cầu Danh Chúa Cả Ba Ngôi : nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/tcmackhai.html

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

Có bao giờ

"Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?"
Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy. (Mt 25,37-40)

"Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi. Tôi đi tìm người anh em, tôi gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi.”

Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2012

Hoang mạc


Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xatan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người. (Mc 1,13)

Sa mạc Kalahari là một khu vực lớn chứa cát bán khô cằn đến khô cằn ở miền nam châu Phi có diện tích khoảng 500.000 km². Nó chiếm 70% diện tích của Botswana, và một phần của Zimbabwe, Namibia và Nam Phi. Một số tài liệu cho rằng khu vực này rộng tới 2,5 triệu km² và bao gồm cả Gabon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa dân chủ Congo, Angola và Zambia.
Các loài động vật ở Kalahari đều phải không ngừng đấu tranh chống lại những kẻ săn mồi tàn nhẫn và cái nóng của sa mạc, để tồn tại.
..."Nguyên tắc vàng của tôi là kiên nhẫn. Tôi đã phải phục ở gần đầm nước trong suốt hai tháng chỉ để chụp được bức ảnh chó rừng săn chim bồ câu. Cần phải rất rất kiên nhẫn".
http://maps.vnqconline.com/Dia_Ly/Sa_Mac/S_M_K_ID_000001_01.html

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Tro

"Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi..."

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Lễ tro năm nay, ĐGH nhắc nhở mọi người hãy quan tâm đến người khác:
Yếu tố đầu tiên là lời mời gọi “hãy quan tâm”. Động từ Hy lạp dùng ở đây là katanoein, có nghĩa là quan sát tỉ mỉ, chăm chú, theo dõi kỹ lưỡng, kiểm tra điều gì. Chúng ta gặp động từ này trong Tin Mừng, khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy “quan sát” chim trời, tuy chúng chẳng lo lắng gì, nhưng vẫn được Chúa Quan Phòng ân cần chăm sóc (x. Lc 12,24), và hãy “nhận ra” cái xà trong mắt mình trước khi nhìn thấy cọng rơm trong mắt của người anh em (x. Lc 6,41). Chúng ta cũng thấy động từ này trong một đoạn khác của Thư gửi tín hữu Do Thái, như lời mời gọi hãy “ngắm nhìn Chúa Giêsu” (3,1), là Tông đồ và là Thượng tế của niềm tin của chúng ta. Vì thế, động từ mở đầu lời nhắn nhủ này mời gọi hãy chăm chú nhìn người khác, trước tiên là nhìn Chúa Giêsu, rồi quan tâm đến nhau, chứ đừng tỏ ra như người xa lạ, dửng dưng về số phận anh chị em mình. Tuy nhiên, chúng ta thường sống ngược lại: dửng dưng và thờ ơ, những thái độ vốn phát sinh từ tính ích kỷ nhưng lại đội lốt “tôn trọng sự riêng tư của người khác”.

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

Trẻ thơ

Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người (Mc 9,35)

Cậu bé không tay học giỏi
Nhìn con trai chào đời với đôi tay cụt sát vai, hai vợ chồng làm thuê tại Vịnh Tre, An Giang, ôm nhau khóc cả tháng, bởi ngày đó, trong cái túng quẫn sẵn có, thêm một đứa con như vậy tương lai càng mịt mờ hơn.
"Lau nước mắt, an ủi vợ, chúng tôi đặt tên con là Nguyễn Minh Trí. Không ngờ như thấu hiểu được nỗi khổ của cha mẹ, Trí ngoan ngoãn, kiên trì vượt qua nỗi khổ cụt tay để giờ đây, sau 17 năm, Trí trở thành một con ngoan trò giỏi", ông Nguyễn Văn An, bố Trí nói.
Ông An kể, từ nhỏ cậu bé đã luôn thể hiện một nghị lực phi thường: "Không có tay mỗi lần bị té thay vì nằm khóc, nó luôn vùng vẫy để ngồi dậy. Lúc lên 3 tuổi, bị muỗi cắn nhìn thấy nó hút no máu, Trí chỉ vẫn cố nhúc nhích cho muỗi bay. Vợ chồng tôi thường đi làm, sợ Trí ở nhà té xuống nước chết nên 4 tuổi tôi đã tập cho cháu bơi lội đến bơi xuồng ghe. Giờ đây chỉ với đôi chân Trí đã bơi qua kênh như “nhái”.


Cậu bé dùng chân thay cho đôi tay
Bắt đầu đến tuổi đi học, Trí càng tỏ ra siêng năng chăm chỉ. Tập viết, lật sách, cho tập vở vào cặp, tất cả mọi việc đều tự mình Trí làm mà không cần ai giúp đỡ. Trí khiến thầy cô bạn bè thương yêu hơn khi thành tích học tập luôn đứng đầu lớp.
"Con phải cố học để trở thành giáo viên dạy hội họa. Con thích truyền đạt những kiến thức mình học được để giúp ích cho gia đình và xã hội. Chỉ sợ gia đình nghèo quá, cha mẹ phải làm thuê nên không đủ tiền trang trải mà thôi", cậu học trò lớp 9A2, trường Trung học cơ sở xã Thạnh Mỹ Tây, Châu Phú, tỉnh An Giang, nói.
Như ý thức mình tàn tật là gánh nặng của gia đình, ngoài giờ học, mẹ Trí cho biết, Trí giúp mẹ đủ việc, từ nấu ăn, lau nhà, rửa chén, trồng được cả cây kiểng đến nuôi cá lia thia. Hằng ngày, sau giờ học Trí còn đi bắt ốc bươu vàng làm thức ăn cho hơn 1.000 con ếch Thái là nguồn sống cho cả nhà.
Có khách đến thăm, Trí bước nhanh xuống mé kênh, dùng đôi chân tháo dây mũi xuồng rồi nhẹ nhàng dùng chân đưa dầm lên đưa máy dầm xuống nước chở khách sang kênh. Lúc cha tiếp khách, Trí đã kẹp mâm nước trà trên cổ mang ra, rồi dùng chân lần lượt rót mời từng người một.
http://vnexpress.net/gl/doi-song/2010/05/3ba1b760/

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012

Quỷ ám

Giêsu quát mắng tên quỷ: "Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa!" Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi. Đứa bé ra như chết, khiến cho nhiều người nói: "Nó chết rồi!" Nhưng Đức Giêsu cầm lấy tay nó, đỡ nó dậy, và nó đứng lên. Khi Người vào nhà, các môn đệ mới hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?" Người đáp: "Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi."
(Mc 9,25-29)

Phải chăng dưới đây là những hành vi quỷ ám:

"Hành trình" giết người, cướp tiệm vàng của tên sát nhân
(VOV) - Dưỡng đã dùng súng bắn điện và dao đâm nhiều nhát vào người bà Bắc rồi sau đó dùng tay đập tủ kính đựng vàng nhưng không vỡ được. Sợ bị phát hiện, Dưỡng ra lấy xe máy tẩu thoát về Thái Bình... Tại cơ quan công an, gương mặt khá hiền lành, Nguyễn Hữu Dưỡng từ tốn khai lại toàn bộ hành vi phạm tội của hắn. (Cập nhật lúc : 9:19 PM, 19/02/2012)

(TN) Rạng sáng 16/2, Tân đi nhậu về rồi cầm dao, dùi cui tìm chị V. trả thù. Tân cạy chốt cửa phòng vào bóp cổ chị V. chết. Sau đó, Tân tiếp tục thực hiện hành vi hiếp dâm nạn nhân. Tân bỏ trốn về Vũng Tàu nhưng biết không thoát được nên trở về Bình Dương đầu thú...Ngày 17/2, Phòng CSĐT Công an tỉnh Bình Dương cho biết Trần Vương Nhựt Tân (ngụ phường Lái Thiêu, thị xã Thuận An) nghi can giết người, hiếp dâm đã ra đầu thú.

(TN)Dư luận đang xôn xao trước vụ rò rỉ nhiều thông tin mật về Tòa thánh Vatican, bao gồm cả âm mưu ám sát giáo hoàng...Phát ngôn viên của Vatican Federico Lombardi đã chính thức thừa nhận việc rò rỉ thông tin là chuyện có thật. AFP dẫn lời ông Lombardi nói: “Chính quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama chấn động vì WikiLeaks còn chúng tôi thì gặp phải vụ này. Thật đáng buồn khi nhiều tài liệu được truyền ra bên ngoài với ý đồ xấu”.
(http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120218/ro-ri-thong-tin-chan-dong-vatican.aspx)

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

Men

Xẻ cơm từ gạo đã ủ men (thay vì nấu cơm, trộn men vào và ủ)
Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê! (Mc 8,15)

Men rượu Trung Quốc, cái chết từ từ
Ở Việt Nam, nguy cơ chết vì rượu cũng rất cao, nhất là bộ phận dân nghèo, bởi rượu họ đang uống nấu từ men Trung Quốc, một loại men sống chiết xuất rượu trực tiếp từ gạo, không qua nấu cơm, rất mất vệ sinh và nguy hiểm cho sức khỏe.
Một người tên Thông, nấu rượu, nuôi heo ở Ðiện Thọ, Ðiện Bàn, Quảng Nam, cho biết: “Nấu rượu dùng men Trung Quốc có lãi gấp hai lần men gia truyền Việt Nam. Trước đây, một ang gạo (tương đương 8kg) nấu cơm, ủ men, sau đó thành hèm, chờ mất ít nhất là 5-7 ngày nhưng lấy được có gần 8 lít rượu. Bây giờ thì khác, gấp đôi, bỏ mối mỗi lít 15 ngàn đồng, người ta bán lại từ 18 đến 20 ngàn đồng, đó là chưa nói quán pha thêm cồn công nghiệp cho nhiều rượu, lãi cao…”
Ông Thông kể tiếp, “Nấu bằng men Trung Quốc, mình không cần phải độn, phải pha gì hết, chỉ cần đổ nước vào gạo cho ướt, không cần vo, vì vo sạch sẽ mất nhiều rượu, trộn men vào, một lạng men chưa tới mười ngàn đồng. Ủ xong đậy để đó, 3 ngày là gạo nở ra thành một khối cơm, tha hồ mà nở! Lúc này bỏ vào nồi, quậy nước vào, chưng cất. Có được lượng rượu nhiều vô kể”.
Vẫn theo lời ông thông, “Trước đây nấu rượu lãi rất ít, phần lớn là lấy hèm nuôi heo, bây giờ thì khác, vừa nuôi heo, vừa kiếm lãi, mỗi ngày kiếm được cũng cả vài trăm ngàn đồng. Trong thôn này có sáu lò rượu, cả xã có hai chục lò rượu. Nhưng khi nào các quán cũng thiếu! Bây giờ rượu rẻ, người ta uống thoải mái!”
Một người khác tên Khâu, sống ở Thăng Bình, Quảng Nam, cho biết: “Tui mỗi tuần nấu được năm trăm lít rượu, nhưng chưa bao giờ có đủ rượu để bỏ các quán ở đây. Toàn huyện này có chừng bảy chục lò rượu lớn, nhỏ, có chừng mười lò cỡ như tôi. Nhưng chưa bao giờ thừa rượu…”
“Thời buổi bây giờ, ngoài đi làm kiếm cơm ra, chẳng có gì để vui ngoài chuyện chiều chiều chui vào quán rượu, tiền ít thì uống rượu gạo, tiền nhiều thì uống bia. Nhưng hơn 80% khách nhậu bình dân uống rượu gạo là chính, giá rẻ, uống mau say…”

Những cái chết ngấm ngầm…
Cô Lợi, giáo viên nghỉ hưu, nấu rượu, nuôi heo, hiện đang sống tại Quế Phú, Quế Sơn, Quảng Nam, cho biết: “Mình vẫn biết là nấu rượu bằng men Trung Quốc rất nguy hiểm, vì nó quá mất vệ sinh, nhưng mình mà không theo kịp thì xã hội nó đạp mình xuống!”
“Gần đây, người ta bị ngộ độc sau khi nhậu rất nhiều, cô nghĩ là do rượu. Rồi thêm chuyện dân ‘rượu đứng’ (dân nghiện rượu nặng, chừng 2 giờ đồng hồ phát thèm một lần, vào quán, mua 2 ngàn đồng, nốc ực rồi đi, nếu không có rượu, mắt mờ, tay chân run, nặng hơn một chút là phều nước bọt…) Chuyện đánh nhau chết người do rượu cũng nhiều không kể xiết…”
Chúng tôi hỏi cô Lợi vì sao thấy rượu nguy hiểm vậy mà cô vẫn dùng men Trung Quốc để nấu, hoặc không kiếm việc khác làm để ít ray rứt hơn… Cô cười héo hắt: “Ồ, cô chỉ làm được có hai việc, một là đi dạy học, hai là nấu rượu nuôi heo. Cô chẳng làm việc gì được nữa! Nghiệt nỗi cô làm hai việc đều có tính đầu độc, nghỉ đầu độc con nít lại chuyển sang đầu độc người lớn!”
Một bác sĩ, yêu cầu giấu tên, đang làm việc tại bệnh viện Vĩnh Ðức, Ðiện Bàn, Quảng Nam, cho biết: “Phần lớn những năm gần đây, các bệnh nhân gan ở độ tuổi trung niên đều là đàn ông, hoặc là xơ gan, ung thư gan… Nói chung là gan! Từ mười năm trở lại đây bệnh này xuất hiện rất cao”.
“Mà men Trung Quốc cũng xuất hiện từ đó đến giờ, tôi nghĩ phần lớn chết do uống rượu, cái chết của rượu là cái chết chậm, nó không chết liền như những thứ khác, nó từ từ biến cơ thể thành một ổ bệnh. Và khi đã bệnh, con người trở nên chán chường, cáu gắt, làm phương hại đến người thân không ít”.
“Thậm chí, một người bệnh gan vì rượu, trước khi chết, anh ta có thể làm cho gia đình anh ta chết vài ba lần trước khi anh ta nhắm mắt tắt thở. Không có gì nguy hại bằng rượu, chính sách ngu dân của người Pháp dành cho người Việt trước đây cũng lấy rượu làm quốc sách. Bây giờ, không hiểu sao người Trung Quốc lại dễ dàng áp dụng chính sách ngu dân ở Việt Nam đến vậy!”

Tràn lan mùi hèm Trung Quốc
Một người khác tên Huyên, chuyên buôn men rượu từ Trung Quốc về Việt Nam, khu vực hoạt động của ông ta kéo dài từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi, cho biết: “Mỗi tháng, tôi bỏ mối chừng 10 tấn men các loại, từ men rượu nếp cho đến men rượu gạo, rượu sắn, rượu mía… Trong đó, men rượu gạo chiếm chừng 85%”.
“Cứ một tấn men cho ra chừng trăm tấn hèm rượu và cho ra chừng ba chục tấn rượu sử dụng. Như vậy, riêng khu vực miền Trung từ Quảng Bình vào Quảng Ngãi, có ba trăm tấn rượu, tương đương ba trăm ngàn lít. Có chín người bỏ mối như tôi. Có chừng hai triệu bảy trăm ngàn lít rượu được tiêu thụ trên miền Trung mỗi tháng. Hơn cả số lượng bia”.
“Ðiều này cũng dễ hiểu thôi, vì dân mình nghèo, thất nghiệp cũng nhiều, nên chuyện tiêu thụ rượu nhiều là chuyện đương nhiên. Có khi vậy mà hay, uống càng nhiều, càng mau ngu, mau chết. Thì khổ quá, ngu khỏi phải đau đầu vì suy nghĩ, chết thì hết chuyện, thế thôi!”
Ông còn cho biết thêm, tỉ lệ men Trung Quốc tuồn vào miền Nam, cụ thể là Sài Gòn, số lượng men của họ tiêu thụ có thể gấp ba lần miền Trung. Sài Gòn là một cái quán nhậu vĩ đại của Việt Nam mà lại! Hà Nội thì khác, số lượng bia và rượu ngon cao cấp tiêu thụ nhiều, chứ số rượu dỏm thì chỉ có khu ổ chuột dùng thôi, nên men Trung Quốc không có đất dụng võ ở Hà Nội”.
Câu chuyện về rượu và men Trung Quốc còn khá dài, chung qui, hàng hóa của họ đã đi vào đến tận huyết mạch, não bộ của người Việt Nam. Và nó phát tác như thế nào, nhìn vào những người nghiện rượu sẽ biết.

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Dấu lạ & logo

Những người Pharisêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người. Người thở dài não nuột và nói: "Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ?"
(Mc 8,11-12)
Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Đấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.
Dấu lạ là một dấu chỉ. Logo cũng là một dấu chỉ. Logo là một tập hợp những đường nét đơn giản và dễ nhìn, giúp người ta dễ nhớ ý nghĩa chính yếu của một sự kiện hay đướng hướng chính yếu của một tổ chức. Logo còn giúp cho người ta ý thức mình thuộc về một tập thể, giúp cho các thành viên nhận ra nhau, gắn bó với nhau.
Ví dụ Logo MVTT
1. Có hình ảnh của bốn chữ MVTT: Mục vụ Truyền Thông.
2. Có hình ảnh hai người:
a. Khi chưa truyền thông cho nhau - diễn tả bằng hình ảnh tay và chân bên ngoài của hai người chưa kết nối với ai - lúc đó tay và chân của họ chơ vơ như một trái tim bị cắt làm đôi, cần được nối kết truyền thông với người khác để làm thành một trái tim tròn đầy.
b. Khi truyền thông cho nhau - diễn tả bằng hình ảnh tay và chân bên trong của hai người đã nắm chạm vào nhau - thì tay và chân của họ nối kết với nhau thành một trái tim rất đẹp:
- Bên trong trái tim này có một vòng tròn. Vòng tròn trong tim này nối với hai mái đầu của họ làm thành ba vòng tròn, diễn tả Ba Ngôi Thiên Chúa: họ làm truyền thông theo mẫu mực của Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Hai tay bên trong đó giơ cao Thập giá Đức Kitô: truyền thông để cùng nhau loan báo Tin Mừng.
3. Màu đỏ diễn tả nhiệt tình: Truyền thông với tất cả tâm huyết, tha thiết và nồng nhiệt.

Truyền thông – như nắng hồng của mùa Xuân cho chim ca bướm lượn trên ngàn hoa – là truyền thông trong yêu thương, tim say mê tìm chân lý, góp hương cho mùa Xuân.
Truyền thông – tim mở rộng để ủ ấp trong yêu thương tất cả, không trừ ai – là truyền thông cho Giêsu - trong tim con - chạm đến những nỗi đau của trần gian.
Truyền thông: khi nắng đẹp, hoặc khi đêm đen âm u hãi hùng, vẫn truyền thông; vì truyền thông trong Ba Ngôi, trong Giêsu – là sức sống – giúp con luôn bình an.
Truyền thông: đây khát vọng tìm dung nhan thân thương Chúa Trời giữa trần gian. Và đường đi: đây Giêsu – cho con theo để con mãi bước đi trong niềm vui.

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

Quan tâm

Sứ điệp Mùa Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI: “Chúng ta hãy quan tâm đến nhau, để khích lệ nhau sống bác ái và làm việc lành” (Dt 10,24)
..."Quan tâm đến nhau": động từ mở đầu lời nhắn nhủ này mời gọi hãy chăm chú nhìn người khác, trước tiên là nhìn Chúa Giêsu, rồi quan tâm đến nhau, chứ đừng tỏ ra như người xa lạ, dửng dưng về số phận anh chị em mình. Tuy nhiên, chúng ta thường sống ngược lại: dửng dưng và thờ ơ, những thái độ vốn phát sinh từ tính ích kỷ nhưng lại đội lốt “tôn trọng sự riêng tư của người khác”.
Chúng ta phải nhận ra tha nhân thực sự là một cái tôi khác của mình, được Chúa rất mực yêu thương.
Quan tâm đến tha nhân có nghĩa là ý thức được những nhu cầu của họ. Không bao giờ chúng ta được để cho con tim mình bị những quyền lợi và những mối bận tâm của mình phủ lấp đến độ không nghe được tiếng kêu của người nghèo.
“Quan tâm đến nhau” cũng bao hàm việc quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của nhau. Ở đây, tôi muốn lưu ý một khía cạnh của đời sống Kitô giáo mà tôi cho rằng đã bị lãng quên: đó là sự sửa lỗi huynh đệ nhắm đến ơn cứu rỗi đời đời.
Việc “trông coi” tha nhân thúc bách ta theo đuổi “con đường đưa đến bình an và xây dựng lẫn nhau” (Rm 14,19), vì lợi ích cho tha nhân, “để nâng đỡ nhau” (15,2), và không phải tìm điều lợi cho riêng mình, nhưng “cho nhiều người khác, để họ cũng được cứu độ” (1 Cr 10,33). Tha nhân thuộc về tôi; và cuộc sống, phần rỗi của họ có liên quan tới cuộc sống và phần rỗi của tôi.
“Để khích lệ nhau sống bác ái và làm việc lành”: cùng nhau tiến bước trên đường nên thánh.
Những lời này của Thư gửi tín hữu Do Thái (10,24) thúc đẩy chúng ta suy tư về ơn gọi nên thánh dành cho mọi người, về cuộc hành trình liên lỉ trong đời sống thiêng liêng, khao khát những ân sủng lớn lao và một đức bác ái còn cao cả và đem lại hoa trái nhiều hơn (x. 1 Cr 12,31–13,13).

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

Đói

Trong những ngày ấy, có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Ðức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người từ xa đến.” Các môn đệ thưa Người: “Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?” Người hỏi các ông: “Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: “Thưa có bảy chiếc.” Người truyền cho đám đông ngả lưng xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra.
(Mc 8,1-7)
Vatican City, 10 February 2010 (VIS) - This morning in the Vatican, the Holy Father received in audience twenty-five members of the John Paul II Foundation for the Sahel (the sub-Saharan region of Africa which includes countries on the west coast and central part of the continent). The institution came into being following John Paul II's first trip to Africa and was formally established with a Chirograph on 22 February 1984. It is involved in managing and protecting natural resources, the struggle against drought and desertification, rural development and the fight against poverty, through the involvement of local people.
In his address Benedict XVI recalled how in recent months the Sahel "has been seriously threatened by a significant drop in food supplies and famine, caused by low rainfall and the consequent inexorable advance of the desert. I exhort the international community to concern itself with the extreme poverty of these peoples, whose living conditions are deteriorating. And I encourage and support the efforts made by the ecclesial organisations which operate in this field".
In some of the countries in which the Foundation operates Islam is also present. In this context Benedict XVI expressed his satisfaction at the good relations that exist with Muslims, and noted "the importance of bearing witness to the fact that Christ lives, and that His love goes beyond all religions, races and cultures".
In conclusion the Pope highlighted how "Africa is the continent of hope for the Church, ... the continent of the future".

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Cho con

Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc 7,26)

Học sinh hành xử kiểu xã hội đen
09/02/2012 3:00
Ngày 8.2, Đội CSĐT, Công an Q.Ninh Kiều (TP.Cần Thơ) đã chuyển hồ sơ vụ án giết người đến Phòng CSĐT tội phạm về TTXH (PC 45), Công an TP.Cần Thơ, tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.
Theo hồ sơ vụ án, Trần Hồng Tâm và Phạm Hoàng Kim Ngọc là học sinh Trường THPT Phan Ngọc Hiển (Q.Ninh Kiều) có xích mích với nhau, sau đó Tâm đã nói lại cho bạn trai mình là Lê Thanh Võ biết. Khoảng 12 giờ ngày 6.12.2011, Võ hẹn Ngọc ra quán trà sữa gần cổng trường để giải quyết. Khi vào quán, nhóm của Võ gồm: Võ, Tâm, Tí và Khoa; còn nhóm của Ngọc thì có bạn trai là Huỳnh Đức Duy cùng với Lý Minh Huy, Nguyễn Văn Tài (Cu em) và Tí “lé”.
Khi hai bên mới nói vài câu qua lại thì nhóm của Võ rút mã tấu chém vào đầu làm Tài gục tại chỗ rồi lên xe tẩu thoát. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, nhóm của Duy (bạn trai Ngọc) điện thoại cho Võ hẹn gặp nhau để “giải quyết”. Sau đó, nhóm của Duy gồm có Lư Hồng Kỳ (sinh viên cao đẳng kinh tế), Lương Tấn (học sinh Trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, Q.Ninh Kiều), Nguyễn Trọng Nhân, Nguyễn Văn Tài, Võ Hoàng Hải, Chế Trần Thế Phương, Lương Chánh Tài, Lý Minh Huy, Nguyễn Văn Tiền (Cu anh) mang theo dao, mã tấu đi trên 6 xe mô tô, rảo quanh các tuyến đường Q.Ninh Kiều để tìm nhóm của Võ.
Tang vật vụ án
Khi nhóm của Duy chạy đến đường Hòa Bình thì phát hiện nhóm của Võ gồm: Võ, Tí, Nguyễn Hoàng Tuấn, Khoa, Nguyễn Sơn Hải nên tức tốc truy đuổi. Tuy nhiên, Tí, Võ, Khoa chạy thoát, còn lại Hải và Tuấn chạy đến trước nhà số 6, đường Nguyễn Trãi, P.An Hội, Q.Ninh Kiều thì bị Kỳ dùng xe lao thẳng vào làm Hải, Tuấn té xuống đường, bị cả nhóm của Duy xông vào dùng dao, mã tấu, ống sắt đánh, chém trọng thương. Hải và Tuấn được người dân đưa đi cấp cứu.
Ngày 16.12.2011, Cơ quan CSĐT, Công an Q.Ninh Kiều đã ra lệnh bắt tạm giam Lương Tấn (SN 1994), Nguyễn Trọng Nhân (SN 1991), Huỳnh Đức Duy (Duy què, SN 1994), Võ Hoàng Hải (SN 1994) và Lư Hồng Kỳ (SN 1993).
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120209/hoc-sinh-hanh-xu-kieu-xa-hoi-den.aspx

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012

Bên trong

"Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu." (Mc 7,21)

Gần một nửa nông dân Trung Quốc bị thu hồi đất
(TNO) Theo một cuộc nghiên cứu rộng rãi, hơn 43% nông dân Trung Quốc  là nạn nhân của việc thu hồi đất và các chính quyền địa phương đã thu lợi lớn nhờ tiến trình này, theo truyền thông nhà nước Trung Quốc ngày 7.2.
Thu hồi đất đã trở thành một vấn đề nóng bỏng ở Trung Quốc khi các quan chức buộc nông dân từ bỏ đất đai để mở đường cho việc xây dựng, nhằm kiếm chác từ sự bùng nổ thị trường bất động sản. Vấn đề này liên tục bị Thủ tướng Ôn Gia Bảo lên án, theo AFP.
Trong một cuộc biểu tình mới đây, dân làng Ô Khảm ở tỉnh Quảng Đông đã ra mặt chống đối chính quyền địa phương hơn một tuần trong vụ tranh chấp về đất đai và tham nhũng thu hút nhiều sự chú ý của dư luận. Họ rốt cuộc đã chiến thắng trong lần nhượng bộ hiếm hoi của chính quyền.
Theo nghiên cứu được Trường đại học Nhân dân ở Bắc Kinh thực hiện tại 17 tỉnh và khu vực, gần 1/4 nông dân không nhận được bất kỳ khoản bồi thường nào cho đất đai của họ.
Gần 2/3 người được bồi thường nhận một cục tiền trung bình khoảng 18.739 NDT (3.000 USD) cho một mẫu Trung Quốc, đơn vị đo lường đất tương đương 0,07 héc ta, theo nghiên cứu. Những người còn lại nhận tiền theo từng đợt.
Trong khi đó, giá bán đất trung bình của chính quyền địa phương là 778.000 NDT/mẫu, gấp 40 lần giá bồi thường cho nông dân.
Trong chuyến thăm trung tâm sản xuất ở tỉnh Quảng Đông vào tuần trước, ông Ôn Gia Bảo đã lặp lại những lo ngại về việc thu hồi đất đai.
“Việc tước đoạt đất nông nghiệp trái phép đã trở thành vấn đề thường xuyên xảy ra, gây ra nhiều khiếu kiện và thậm chí các xáo trộn lớn”, Tân Hoa xã dẫn lời ông Ôn.
Thủ tướng Trung Quốc bổ sung rằng đất của nông dân “không được bảo vệ đầy đủ”.
Nông dân Trung Quốc không phải là chủ sở hữu đất đai mà họ trồng trọt song từ quá trình phi tập thể hóa cách đây 30 hơn năm, họ có quyền sử dụng đất thông qua việc thuê đất dài hạn.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120207/gan-mot-nua-nong-dan-trung-quoc-bi-thu-hoi-dat.aspx

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2012

Truyền thống

Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu:
"Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?"
Người trả lời họ:
"Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta... Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm...
Quả thế, ông Môsê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! Còn các ông, các ông lại bảo: "Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là "Corban" nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa" rồi, và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa.
Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!"
(Mc 7,5-6.10-13)

Truyền thống tích tụ những khôn ngoan từ nhiều thời của con người.
Tuy nhiên vì con người bất tòan, nên truyền thống cũng có những điều bất toàn, thậm chí có những điều bất nhân nữa.
Truyền thống con người chỉ tốt đẹp khi nó hình thành bởi những con tim gắn liền với tình yêu và thánh ý Thiên Chúa.
Từ truyền thống của xã hội, tôi suy nghĩ về "truyền thống" của từng cá nhân, bao gồm tập quán ứng xử của chính cá nhân tôi. Tập quán hình thành từ những công việc hằng ngày. Mỗi việc tôi làm có xuất phát từ trái tim tôi gắn liền với trái tim Chúa không? Hay nó chỉ được thúc đẩy từ những ham muốn chật hẹp và lăng loàn của tôi?

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

Tìm

Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." (Mc 1,37-38)
Mọi người đang đi tìm Chúa, sao Chúa không ở lại với họ? Sao Chúa lại ra đi và đi tìm thêm nhiều người khác?
Thực ra phải nói rằng người ta đi tìm Chúa vì Chúa đã đi tìm họ trước, vì Chúa đã yêu họ trước.
Chúa tiếp tục đi tìm. Trái tim Chúa tiếp tục rộng mở, không đóng lại cho bất cứ ai.
Trái tim rộng mở là trái tim luôn đi tìm.
Tìm để ủ ấp để yêu thương.
Khi không đi tìm thì tim sẽ đóng lại.
Và cuộc đời sẽ chật hẹp, sẽ không còn chỗ cho tha nhân và cho Chúa nữa.
Tim mở rộng có nghĩa là mắt cũng phải mở to.
Tim và mắt cùng đi tìm.
Yêu để thấy và thấy để yêu, không thể thiếu một trong hai.

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Chạnh lòng thương

"Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt." (Mc 6,34)
Cầu nguyện cho ai là chạnh lòng thương để mở rộng con tim ủ ấp họ trong lòng, với mục đích để cho Chúa trong tim tôi chạm đến họ, cứu chữa họ.
Cũng thế, làm mục vụ truyền thông, viết tin, làm mục vụ PR là chạnh lòng thương hầu mở rộng con tim để ấp ủ tất cả những người có liên quan vào trong tim mình. Có như thế bản tin mới thực sự có hồn, và làm PR mới có ý nghĩa. Lúc đó mới có khả năng mang lại mùa Xuân dù đang sống giữa mùa đông, mới mang lại ánh sáng dù đang ở trong bóng tối, mới mang lại niềm vui giữa lầm than.

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

Lưới người

Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." (Mc 1,17)
Tôi đã "lưới" được bao nhiêu người vào trong Nước Chúa? Bao nhiêu người đã nhờ tôi mà tìm được hạnh phúc Nước Trời. Làm sao mà biết được! Người gieo giống không thể nào biết trước sẽ thu hoạch được bao nhiêu. Nhưng niềm vui sẽ có được khi nhìn lại và biết rằng mình đã cùng gieo giống với Chúa, cùng ra khơi tung lưới với Chúa.
Thế thì, lạy Chúa, con đã nỗ lực từng ngày để gieo giống và ra khơi tung lưới với Chúa chưa?

Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012

Mất trí

"Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí." (Mc 3,20-21)
Sự khôn ngoan tuyệt đối cộng với tình yêu mãnh liệt bao la của Thiên Chúa khiến Ngài có những hành động mà con người không thấu hiểu được.
Và khi không hiểu được thì con người lại dám ngạo mạn bảo Thiên Chúa đã mất trí rồi!
Mà trí khôn nông cạn của con người làm sao hiểu được Thiên Chúa.
Chỉ có một cách đúng đắn cần làm là mở lòng trí ra mà đón nhận ánh sáng khôn ngoan chiếu xuống từ Thiên Chúa. Con người vẫn phải vận dụng mọi khả năng tư duy với tất cả con tim của mình để khám phá tìm hiểu mọi sự, đồng thời phát huy mọi năng lực của trí tuệ và tâm hồn để đón nhận được ánh sáng mạc khải từ Thiên Chúa. Đấy chính là mối tương quan giữa lý trí và đức tin.
Xin cho con biết mở trí lòng ra, tạo được sự gặp gỡ giữa lý trí và đức tin như thế.

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

Chai đá

Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. (Mc 3,5)
Lòng họ đã ra chai đá nên không trả lời được một câu hỏi nói lên một sự thật hết sức hiển nhiên: "Ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?"
Ngày Sabát tất nhiên là "được phép" làm điều lành và "cứu mạng". Ai mà không trả lời được! Thế mà họ lại im lặng!
Chúa một dùng cụm từ hết sức mỉa mai "được phép"! Muốn làm điều lành, muốn cứu mạng người cũng cần phải được phép ư? Chẳng phải đó là chuyện đương nhiên phải làm, và có bổn phận phải làm sao? Trong một xã hội mà muốn làm điều lành, muốn cứu mạng người cũng cần phải được phép, thì đó là xã hội gì?
Phản ứng sau đó của Chúa là: Đức Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra!" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường.
Và phản ứng tiếp theo của nhóm Pharisêu và nhóm Hêrôđê là: tìm cách giết Đức Giêsu!
Và như vậy cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối đã diễn ra thật là quyết liệt và nghiệt ngã. Ở lâu trong bóng tối khiến lòng con người nên chai đá, mù quáng và độc ác. Con người khi đó trở thành công cụ của bóng tối.
Xin Chúa cho con luôn tìm cách thoát khỏi bóng tối. Đừng để lòng ra chai đá, mù quáng và độc ác.

Thứ Ba, 17 tháng 1, 2012

Nghỉ ngơi

Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát. (Mc 2,27)
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa. Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.
Chỉ khi sống ba chiều kích đó, con người mới thực là chính mình.
Ngày Chúa nhật như vậy giúp cho con người khỏi vong thân.

Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012

Can đảm

"Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức Giêsu và các môn đệ: con số họ đông và họ đi theo Người. Những kinh sư thuộc nhóm Pharisêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: "Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!"(Mc 2,15-16)
Nhìn nhận tôi lỗi của mình đòi sự can đảm. Dứt khoát đứng lên để ra khỏi tình trạng tội lỗi đòi một can đảm lớn hơn. Dứt khoát xa lánh dịp tội trong một môi trường hiện đại đầy những cám dỗ và cạm bẫy đòi một sự can đảm thường hằng. Sự can đảm này đi kèm một hy sinh liên tục, một tình yêu mãnh liệt dành cho Chúa.

Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2012

Kế hoạch & quyết tâm

"Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống." (Mc 2,3-4)

Hành động của "bốn người khiêng" là công việc của mục vụ PR: thực hiện kế hoạch tạo ra tương quan tốt đẹp giữa Chúa và công chúng (hay thân chủ) của mình.
"Bốn người khiêng" đã thực hiện một kế hoạch bất ngờ, và đã thành công. Họ đã làm cho kẻ bại liệt gặp được Chúa, có được "quan hệ" tốt với Chúa. Kết quả là phép lạ đã xảy ra. Tất cả là do có được một kế hoạch táo bạo hợp lý và quyết tâm mạnh mẽ.
Xin cho con cũng lên được những kế hoạch của tình yêu như thế, và quyết tâm thực hiện, bất chấp mọi trở ngại.

Thứ Năm, 12 tháng 1, 2012

Lạc loài

Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi! "(Mc 1,41)

Người cùi phải sống cảnh lạc loài, vì bị đẩy ra ngoài xã hội, bị xa tránh, bị kinh sợ.
Ngày nay cũng có nhiều người sống cảnh lạc loài, dù không mắc bệnh cùi.
Đó là những người phải sống bên lề xã hội, những kẻ vô gia cư, không nhà cửa, bần cùng khốn khổ.
Đó cũng là những người không hội nhập được với xã hội, hoặc xa lạ với tập thể của mình.
Con rất nhiều khi không hội nhập được với cộng đoàn của con, với xã hội quanh con.
Xin Chúa giơ tay đụng vào con.
Xin Chúa chạm vào những người lạc loài hôm nay.

Thứ Tư, 11 tháng 1, 2012

Phục vụ

"Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài." (Mc 1,31)
Khách đến nhà mà không tiếp đón và phục vụ cho tươm tất thì thật là khó chịu và xấu hổ.
Vì thế, chữa cho mẹ vợ Phêrô khỏi sốt, Chúa cũng trả lại niềm vinh dự cho bà.
Phục vụ như thế cũng là niềm vinh dự.

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

Thần ô uế

Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. (Mc 1,26)
Thần ô uế ở khắp nơi trong thế giới hôm nay. Đặc biệt qua các phương tiện truyến thông như phim ảnh, internet... chúng nhập vào con người một cách êm ái và mặc sức tàn phá.
Cuộc chiến với thần ô uế hôm nay vô cùng cam go.
Lạy Chúa, xin cứu chúng con!

Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012

Con yêu dấu


Con là Con yêu dấu của Cha (Mc 1,11)
Chúa Cha vẫn nói câu này với con: "Con là Con yêu dấu của Cha"
Chúa muốn con nghe được, cảm nhận được câu này như là tiếng lòng của Chúa. Một câu nói phát xuất từ con tim của Cha trên trời như một lời chúc phúc, như một sự bao bọc vỗ về. Để con an tâm. Để con tràn trề niềm vui. Để con cảm thấy vinh dự và nghĩa vụ của mình. Đặc biệt là nghĩa vụ đối với những người anh em chưa nghe được những lời này của Cha yêu dấu.

Tại sao Kodak thất bại?

Có thể thấy ngay Kodak đã không thức thời khi đánh giá sai tiềm năng của công nghệ kỹ thuật số. Việc rửa một cuốn phim thành ảnh không thể tiện lợi hơn việc in một tập tin ảnh. Chưa kể với máy ảnh số, người dùng có thể chụp nhiều lần thỏa thích mà không sợ tốn phim như trước.
Tuy sản xuất máy ảnh số đầu tiên, nhưng vì sợ ảnh hưởng đến doanh thu máy in ảnh lúc bấy giờ nên Kodak đã bỏ qua phát triển loại máy ảnh tiên tiến này. Và cũng chính những chiến lược sai lầm của Antonio Perez - CEO của Kodak thuở đó - cũng đã khiến Kodak bị thụt lùi lại phía sau.
Perez đã cho rằng “kinh doanh máy ảnh số không có gì thú vị”, sau đó lao vào sản xuất máy in ảnh. Nhưng liệu còn ai mua máy in ảnh của Kodak khi vào thời điểm ấy Sony tung ra mẫu máy in không cần phim. Ngạc nhiên hơn, nó còn có thể hiển thị ảnh trước khi in trên màn hình tivi!
Tuy vậy, nguyên nhân trực tiếp kết liễu Kodak lại chính là khoản tiền phát sinh từ những vụ kiện tụng bằng sáng chế giữa Kodak với các đối thủ, tiêu biểu là Apple và RIM. Kodak đã trượt dài trong khủng hoảng khi không thể kiếm tiền bằng cách kiện tụng, cũng không thể tạo ra lợi nhuận từ những sản phẩm lỗi thời.

Lối thoát nào cho “vị vua” 131 năm tuổi?

Hi vọng gần như là con số 0! Đứng trước nguy cơ phá sản, Kodak hiện rao bán 1.100 bằng sáng chế để lấy tiền hoàn tất thủ tục xin bảo hộ phá sản. Nếu chẳng ai mua, Kodak sẽ lại phải xin tiền các chủ nợ để có thể hạ cánh an toàn.
Bước đầu thành công với 1 tỉ USD và 131 năm sau, đến khi phá sản, Kodak cũng không có đủ 1 tỉ USD để hoàn thành những thủ tục pháp lý cần thiết. Dẫu biết khó ai có thể đứng mãi trên đỉnh vinh quang. Nhưng với trường hợp của Kodak, ngày tàn hôm nay lại là một bài học lớn.
http://nhipsongso.tuoitre.vn/Nhip-song-so/473111/Kodak-de-don%C2%A0pha-san-khep-lai%C2%A0hon-mot-the-ky.html

Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2012

Cuộc chiến

Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao.(Mt 2,3)
Phải chăng nếu các nhà chiêm tinh không đến gặp Hêrôđê, thì vua Hêrôđê đã không bối rối, cả thành Giêrusalem đã không xôn xao, và các trẻ sơ sinh ở Bêlem đã không phải chết?
Thực ra luôn có cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối. Cuộc chiến đó phát xuất từ lòng người và dẫn ra ngoài xã hội.
Ánh sáng của ngôi sao lạ, chính là ánh sáng của Đấng Cứu Thế, đã đến với tâm hồn các nhà chiêm tinh. Một cuộc chiến diễn ra trong tâm hồn họ. Nên ở nhà hưởng nhàn hay ra đi tìm kiếm? Nên chấp nhận thờ lạy một trẻ bé nghèo hèn này hay không? Nên a tòng với Hêrôđê hay không? Rất may, ánh sáng đã chiến thắng trong tâm hồn của các nhà chiêm tinh.
Nhưng ngược lại, chiến thắng trong tâm hồn của Hêrôđê và dân thành Giêrusalem lại là bóng tối, để dẫn đến sự xôn xao nhưng rồi lại thờ ơ của dân thành Giêrusalem, dẫn đến sự lo âu của Hêrôđê đưa đến kết quả là cái chết của các trẻ sơ sinh Bêlem.
Trong lòng con, ánh sáng hay bóng tối đang thống lĩnh?

Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2012

Họ hết rượu rồi

Họ hết rượu rồi (Ga 2,3)
Rất nhiều khi trong cuộc đời con cảm thấy mình cạn kiệt. Giống như tiệc cưới Cana không còn rượu nữa.
Phải chăng lúc đó con cần đến Mẹ Maria: "Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người..."?
Và con cần nghe lời Mẹ dặn dò: "Người bảo gì, anh cứ việc làm theo."
Và Chúa Giêsu dạy con: "Anh đổ đầy nước vào chum đi!"
Vâng, cũng chỉ là nước lã thôi. Cũng chỉ là những gì hèn kém, nhạt nhẽo của con thôi. Nhưng cứ phải đổ đầy. Cứ phải toàn tâm toàn ý. Còn lại ra sao thì là việc của Chúa.
Và đã không ít lần con chứng kiến những điều kỳ diệu nồng nàn Chúa thực hiện trên những nỗ lực xem ra rất nhạt nhẽo vô vị của con.

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2012

Cưu mang

"...Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần." Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan." (Mc 1,8-9)

Giòng sông Giodan đã cưu mang bao nhiêu con người dìm vào dòng nước đó để sám hối tội lỗi cùa mình.
Giêsu cũng dìm mình vào dòng nước này, không phải để sám hối tội mình - vì Ngài không có tội - nhưng để cưu mang tất cả nhân loại tội lỗi vào trong bản thân của mình, vào trong đáy sâu lòng mình. Ngài cưu mang họ và gánh lấy tội của họ để cứu độ họ.
Cầu nguyện phải chăng cũng là một sự cưu mang? Con cầu nguyện cho ai, là con cưu mang lấy họ trong lòng của mình, mang lấy bản thân và cuộc đời họ để trình họ ra trước mặt Chúa, van xin bàn tay yêu thương của Chúa chạm trên họ, cứu chữa họ. Mức độ cưu mang có sâu đậm hay không là rất cần thiết.
Và như thế, cầu nguyện là cộng tác tích cực vào công cuộc cứu độ của Chúa...
Xin cho con biết thực sự cưu mang người khác khi con cầu nguyện, vận động mọi khả năng của đầu óc, con tim, trí tưởng tượng, tình cảm... để cưu mang... Và sự mang này thúc đẩy con thoát khỏi sự lãnh cảm, biết dấn thân.

Dịch giả Hoàng Hưng đã chuyển ngữ câu chuyện thương tâm có thật đã xảy ra tại Trung Quốc như sau:
Một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Giữa đường, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô lái xe xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô. Tất nhiên là cô lái xe kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng. Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay; nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường. Một giờ sau, ba tên du côn và cô lái xe tơi tả trở về xe và cô sẵn sàng cầm lái tiếp tục lên đường…
“Này ông kia, ông xuống xe đi!” Cô lái xe la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói: “Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?”
“Cứu tôi ư? Ông đã làm gì để cứu tôi chứ?” Cô lái xe vặn lại, và vài hành khách bình thản cười.
Người đàn ông thật sự tức giận. Dù ông đã không có khả năng cứu cô, nhưng ông không nên bị đối xử như thế chứ. Ông từ chối xuống xe, và nói: “Tôi đã trả tiền đi xe nên tôi có quyền ở lại xe.”
Cô lái xe nhăn mặt nói: “Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy.”
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe, họ nói: “Ông ra khỏi xe đi, chúng tôi có nhiều công chuyện đang chờ và không thể trì hoãn thêm chút nào nữa!”
Một vài hành khách khỏe hơn tìm cách lôi người đàn ông xuống xe. Ba tên du côn mỉm cười với nhau một cách ranh mãnh và bình luận: “Chắc tụi mình đã phục vụ cô nàng ra trò đấy nhỉ!”
Sau nhiều lời qua tiếng lại, hành lý của người đàn ông bị ném qua cửa sổ và ông bị đẩy ra khỏi xe. Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô. Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô lái xe: “Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?” Cô tài xế vẫn không đáp lại lời nào. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”. Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Người đàn ông đã bị đuổi xuống xe đọc tờ báo và khóc. Không ai biết ông khóc cái gì và vì sao mà khóc!

Thứ Năm, 5 tháng 1, 2012

Gặp Chúa

- Các anh tìm gì? (the want)
- Hãy đến mà xem! (the need)
- Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha. (the relationshhip)
Đây là những lời nói của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm qua. Các anh tìm gì? Khởi đi từ ước muốn của Gioan & Anrê (Các anh tìm gì?), Chúa mời các ông đến xem (Hãy đến mà xem!) để các ông khám phá ra điều mình cần, để rồi đưa các ông vào một mối tương quan thay đổi cả cuộc sống (đổi tên: Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha.)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Philipphê lập lại lời của Chúa Giêsu để đưa được bạn mình đến với Ngài: Hãy đến mà xem! Khi gặp Chúa, Philipphê thấy Chúa Giêsu biết rõ mọi sự về ông. Ngài biết rõ con người của ông cùng với cả quá khứ, hiện tại và tương lai của ông.
Con người Philipphê: "Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối."
Quá khứ: "Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi."
HIện tại: "Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin !"
Tương lai: "Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa... Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người."

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

Giới thiệu và tiếp đón

"Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu... ông gặp em mình là ông Simôn và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia" (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu." (Ga 1,37.41-42)
Những lời giới thiệu làm thay đổi cuộc sống.
Và làm thay đổi cả lịch sử nhân loại.
Anrê không chỉ giới thiệu mà còn dẫn Phêrô đến gặp Chúa.
Giới thiệu có đạt kết quả tốt hay không còn tuỳ sự tiếp đón của người được giới thiệu.
- Các anh tìm gì?
- Hãy đến mà xem!
- Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha!
Những câu hỏi và những đề nghị rất cốt yếu. Cộng với sự hiểu rõ đối tượng và đưa đối tượng vào mối tương quan sâu đậm đích thực.
Xin cho con biết nhạy bén trong việc giới thiệu, dẫn đưa, quan tâm đến người đối diện và tạo những mối tương quan sâu đậm bền vững...

Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012

Chân dung

"Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian." (Ga 1,29)

Gioan B. là một nhà truyền thông của Chúa. Ông mô tả chân dung của Chúa cho thời đại của ông: Chúa là con chiên cứu độ và là Đấng sở hữu Thánh Thần. Đây là những hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái thời đó. Họ đã quá sức vui mừng, tuôn đến sa mạc để đón nhận phép rửa của ông. Ông là tia nắng ấm của mủa Xuân đối với họ: "Truyền thông như muôn tia nắng hồng của mùa Xuân cho chim ca bướm lượn, cho thắm nụ cười, cho thơm xinh ngàn hoa. Là truyền thông trong yêu thương dạt dào, trái tim mải mê đi theo chân lý..."

Những con người được kể dưới đây cũng là những người mang lại những tia nắng ấm của mùa Xuân.

Người bán vé số “chê” 6,6 tỉ đồng

Bán thiếu “bằng miệng” 20 tờ vé số cho một khách quen, đến khi số vé này trúng giải lên tới 6,6 tỉ đồng, người bán vé số nghèo vẫn giao đủ số vé cho người trúng.
Câu chuyện người bán vé số “đổi” 6,6 tỉ đồng (giá trị của 10 tờ vé trúng) lấy 200.000 đồng, rồi người trúng số tặng lại nguyên tờ vé trúng đến nay vẫn là đề tài bàn tán xôn xao của người dân thị trấn Bến Lức (H.Bến Lức, Long An) bởi cả 2 nhân vật chính đều khá nghèo: vợ chồng chị Lành vé số quê ở H.Hồng Ngự (Đồng Tháp), không có cục đất chọi chim nên dắt díu nhau lên Bến Lức thuê nhà trọ rồi đi bán vé số mưu sinh; người trúng số cũng nghèo, có “thâm niên chạy ba gác 25 năm”.

Tỉ phú bất ngờ
Chiều 15.11, đang hì hục vác mấy thanh sắt để giao cho khách hàng, chuông điện thoại của bác tài lái xe ba gác Đỗ Ngọc Tuấn (41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức) reo vang. Thấy màn hình hiện tên “Lành vé số”, anh Tuấn bấm nghe, trong bụng thầm nghĩ chắc người bán vé số gọi đòi nợ 20 tờ vé số mà anh mua thiếu. Đầu dây bên kia là giọng nữ hơi run run: “Anh cầm 200.000 đồng tới quán cà phê Cây Mai trả cho tui đi. Mấy tờ anh mua thiếu trúng độc đắc rồi nè”. “Thôi đừng có xạo. Đang kẹt tiền phải không? Để giao hàng xong tui lấy tiền người ta rồi đem lại trả”, dứt lời anh Tuấn tắt máy, tiếp tục vác cho hết đống sắt đang chất trên xe.
Mấy tờ vé số này ảnh chưa trả tiền, trúng hay trật cũng là của ảnh, tôi mà không trả thì thiên hạ coi tôi ra gì nữa!

Chị Phạm Thị Lành
Khi nhận tiền công của khách hàng, anh Tuấn chạy xe tới quán Cây Mai để trả tiền cho Lành vé số (Phạm Thị Lành, 29 tuổi). Thấy ông chủ quán Cây Mai và nhiều người khác đang xôn xao, anh Tuấn còn tưởng cô bán vé số và mọi người đùa dai. Vừa ngồi xuống bàn, chị Lành tay run run mở cái túi nhỏ lấy ra xấp vé số đài Bến Tre giao cho anh Tuấn: “Anh cầm đi, lốc này có 10 tờ số đuôi 07 trúng hết rồi. Có 4 tờ trúng đặc biệt, còn lại là giải an ủi”. Dãy số 191207 trên tờ vé số trùng khít với con số ở giải đặc biệt trên cuốn sổ dò. Vẫn không tin vào mắt mình, anh Tuấn run run bấm điện thoại nhắn tin dò qua tổng đài. Tin nhắn kết quả sau đó vẫn là dãy số 191207. Rút ngay một tờ vé trúng kèm 200.000 đồng, anh Tuấn đưa cho Lành: “Tôi trả nợ cho cô, tặng cô một tờ để làm vốn”...
Chúng tôi tìm tới nhà anh Tuấn, thấy cảnh thợ hồ đang xây dựng lại căn nhà mới trên nền cũ để gia đình đón tết, còn anh đang chạy xe ba gác giao hàng. Một lúc sau anh Tuấn về. Cười rất tươi, anh cho biết trong một giây biến thành tỉ phú, anh vẫn là một người lao động bình thường, vẫn phải chạy ba gác vì đó là nghề nghiệp. “Hồi nhận mấy tờ vé trúng, tôi còn nói với cổ rằng nếu cổ không muốn đưa thì tôi cũng không làm gì được. Tôi nghe mấy người rành luật nói giao dịch này chưa hoàn thành, cổ có giữ lại tôi cũng không làm gì được. Mà nói thiệt, cô Lành không nói vợ chồng tôi cũng không biết”, anh Tuấn kể.

Chữ tín của “Lành vé số”
Mấy ngày qua, căn nhà nhỏ xíu rộng chưa đầy 30m2 của bà Phạm Thị Thèm (mẹ ruột chị Lành, 62 tuổi, ấp Long Hữu, xã Long Khánh A, H.Hồng Ngự, Đồng Tháp) đầy ắp tiếng cười. Ngoài tờ vé số được anh Tuấn “thưởng”, ngày hôm đó Lành cũng giữ cho mình một tờ và trúng đặc biệt. Sau khi đổi thưởng được gần 3 tỉ đồng (đã trừ thuế), hai vợ chồng Lành đem tiền về quê mua đất cất nhà cho người mẹ nghèo đang một nách nuôi 7 đứa cháu. Nhiều năm nay bà Thèm cùng các con là Hồ Văn Hiếu (sinh năm 1974), Hồ Văn Nguyên (sinh năm 1978) và Út Lành sống cùng căn nhà này. Hai người anh trai cùng mẹ khác cha của Lành đều bất hạnh. Nhà nghèo, vợ anh Hiếu chịu không nổi nên bỏ đi. Năm 2009, anh dắt 3 đứa con lên Bến Lức ở trọ cùng vợ chồng Lành để đi bán vé số. Cuối năm 2010, anh Hiếu mất, 3 đứa con nhỏ phải gửi về cho bà Thèm nuôi. Vợ anh Nguyên cũng chê anh nghèo bỏ đi, anh nửa điên nửa tỉnh đang điều trị ở Bệnh viện tâm thần T.Ư 2 (Biên Hòa, Đồng Nai), 3 đứa cháu cũng giao hết cho bà nội. “Em đang tính qua tết về quê đưa mẹ và 6 đứa cháu lên đây theo nghiệp vé số. Không ngờ trời thương, giờ em cất nhà cho mẹ, tiền thì gửi ngân hàng để mẹ lấy lãi nuôi bầy cháu. Em mừng vì bây giờ mấy đưa cháu côi cút sẽ được đi học”, Lành nói, gương mặt lấp lánh hạnh phúc.
“Nhiều người nói nếu chị không giao vé số cho anh Tuấn cũng không ai làm gì chị, bây giờ nghĩ lại chị có tiếc không?” - chúng tôi hỏi. Cười hồn hậu, “Lành vé số” trả lời không cần suy nghĩ: “Hồi đó tới giờ tôi bán vé số bị ế, anh Tuấn mua ủng hộ dù không trúng vẫn trả tiền đầy đủ. Mấy tờ vé số này ảnh chưa trả tiền, trúng hay trật cũng là của ảnh, tôi mà không trả thì thiên hạ coi tôi ra gì nữa!”.
Bà Út Tèo - một đồng nghiệp bán vé số của chị Lành ở thị trấn Bến Lức - cho biết nhờ “uy tín” của “Lành vé số” mà thời gian qua những người bán vé số ở Bến Lức cũng “thơm lây”, lượng vé bán tăng hơn trước.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20...6-ti-dong.aspx

Thứ Hai, 2 tháng 1, 2012

Tiếng hô

"Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi" (Ga 1,23)
Truyền thông là một tiếng hô.
Làm PR là thực hiện một tiếng hô.
Tiếng hô này chỉ có thể nghe rõ được nơi hoang địa. Giữa một chốn hội hè náo nhiệt, tiếng hô đó sẽ chìm lỉm giữa bao thanh âm hỗn tạp khác.
Vậy phải chọn lựa, sắp xếp hoặc chuẩn bị cho có được "hoang địa" nơi môi trường hoặc nơi lòng người: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa."
Môi trường phải được dọn dẹp sạch đẹp hơn, bớt ô nhiễm hơn, bớt rối rắm hơn.
Lòng người phải bớt những tiếng kêu ồn ào của tham lam ích kỷ dục vọng điên cuồng hằng gào thét ở tận đáy sâu tâm hồn.
Tiếng hô vang lên, tiếng hô vui mừng hân hoan loan báo một niềm hạnh phúc lớn lao được tặng ban cho nhân loại. Hỡi mọi người, và hỡi chính bản thân của tôi, xin đừng thờ ơ, xin đừng bỏ qua.
Đấy là tiếng hô tôi phải thực hiện mỗi ngày. Cho tôi. Và cho anh em tôi. Vâng, vì tôi là tiếng người hô trong hoang địa.

Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2012

Ngày đầu

Vậy là đã chia tay năm 2011 để bước vào Năm Mới 2012.
Ngày đầu năm là một khởi sự mới cho một kế hoạch mới. Nhưng cũng là một tiếp tục với những kinh nghiệm quý giá, những trả giá của năm cũ, nhằm giúp cho kế hoạch của năm mới có được sự tiến triển và phát triển thực thụ.
Kế hoạch của Năm Mới có thể tìm thấy trong bài Tin Mừng hôm nay:
"Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng." (Lc 2,16-19)
Ngắm Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu để thấy hai hướng cần thực hiện cho kế hoạch năm nay: chiêm niệm (suy đi nghĩ lại) và hy sinh (đặt nằm trong máng cỏ).
Chiêm niệm: hiện diện với Chúa từ sáng sớm.
Hy sinh là điều không thể thiếu trong từng giây phút: hy sinh cho tình yêu, và thắng vượt những ham hố bất kham của bản thân. Thiếu hy sinh, mọi sự sẽ nên tồi tệ.
Trong Ý nghĩa của logo Công nghị TGP.TPHCM có hai chữ hy sinh:  “Giáo Hội sứ vụ” được diễn tả bằng tất cả mọi hình ảnh và mọi mầu sắc trong logo vì mọi sinh hoạt của Giáo Hội đều mang tính truyền giáo nếu được thực hiện một cách tốt đẹp trong sự hy sinh và trong mối tương quan hài hoà với anh em đồng loại:
Sự hy sinh được diễn tả bởi những đường viền màu đỏ của Nhà thờ Đức Bà, giống như những dòng máu thấm vào lòng đất để sinh ra muôn ngàn cây trái..."


Logo Công nghị TGP.TPHCM 2011


Vai trò của logo
Logo là tập hợp của các đường nét, màu sắc và hình ảnh rất đơn giản, dễ nhìn, giúp mọi người dễ nhớ những nội dung chính yếu của một sự kiện hay một tổ chức.


Ý nghĩa của logo Công nghị TGP.TPHCM 2011
Logo Công nghị TGP.TPHCM 2011 có những hình ảnh: Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn viền đỏ, cuốn sách màu trắng với đường viền đỏ, chim bồ câu trắng với 7 luồng sáng trắng và ba cây có tàn lá xanh phủ quanh thân nâu chụm đầu lại với nhau. Tất cả nằm trong một vòng tròn màu xanh: xanh nhạt ở trên là bầu trời và xanh đậm bên dưới là mặt đất. Vòng tròn được bao bọc bởi hai dòng chữ: “Công nghị Giáo phận TP.HCM” và “Đổi mới để hiệp thông và chu toàn sứ vụ”.


Logo Công nghị được triển khai để diễn tả: Giáo Hội mầu nhiệm, Giáo Hội hiệp thông và Giáo Hội sứ vụ.


1. “Giáo Hội mầu nhiệm” được diễn tả bằng những hình ảnh: Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, cuốn sách và chim bồ câu với 7 luồng sáng.
a. Hình Nhà thờ Đức Bà tượng trưng cho Giáo Hội tại TP.HCM. Nhà thờ cũng là nơi dành riêng để cầu nguyện và cử hành Phụng vụ: diễn tả mối tương quan thờ phượng với Chúa (tương quan mầu nhiệm).
b. Hình cuốn sách tượng trưng cho Lời Chúa: Giáo Hội được xây dựng và đổi mới trên nền tảng Lời Chúa.
c. Chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần: Chỉ nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể hiểu được Lời Chúa, mới thờ phượng Chúa cho phải đạo và mới thực hiện được việc canh tân đổi mới cách hữu hiệu.
d. Bảy luồng sáng toả xuống từ chim bồ câu tượng trưng cho bảy ơn Chúa Thánh Thần:
• Ba luồng sáng chiếu trên Nhà thờ Đức Bà tượng trưng cho ba ân huệ làm nên ba đặc tính Mầu nhiệm, Hiệp thông và Sứ vụ của Giáo Hội. Giáo Hội cần đổi mới ba mối tương quan: với Chúa (mầu nhiệm), với đồng đạo (hiệp thông) và với đồng loại (sứ vụ).
• Bốn luồng sáng còn lại tượng trưng cho bốn ân huệ làm nên bốn cột trụ: chân lý và tình yêu, công lý và hoà bình. Giáo Hội cần củng cố bốn cột trụ này.
Bảy luồng ánh sáng còn tượng trưng cho bảy Bí tích: Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng Lời Chúa và các phép Bí tích.


2. “Giáo Hội hiệp thông” được diễn tả bằng những hình ảnh: ba cây chụm lại dưới bốn luồng sáng toả xuống từ chim bồ câu:
a. Ba cây chụm lại tượng trưng cho một mái ấm gia đình có cha, có mẹ và có con cái. Giáo Hội cũng là một gia đình cần được xây dựng theo mẫu mực của gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi
b. Mái ấm nhỏ tại gia hay mái ấm gia đình Giáo Hội đều cần được xây dựng trên bốn cột trụ: chân lý và tình yêu, công lý và hoà bình. Bốn cột trụ này cũng là bốn ân huệ đón nhận từ Chúa Thánh Thần (được diễn tả bằng bốn luồng sáng toả xuống từ chim bồ câu). Bốn cột trụ này sẽ làm cho sự hiệp thông được hiện hữu vững bền.


3. “Giáo Hội sứ vụ” được diễn tả bằng tất cả mọi hình ảnh và mọi mầu sắc trong logo vì mọi sinh hoạt của Giáo Hội đều mang tính truyền giáo nếu được thực hiện một cách tốt đẹp trong sự hy sinh và trong mối tương quan hài hoà với anh em đồng loại:
a. Sự hy sinh được diễn tả bởi những đường viền màu đỏ của Nhà thờ Đức Bà, giống như những dòng máu thấm vào lòng đất để sinh ra muôn ngàn cây trái.
b. Mối tương quan hài hoà với anh em đồng loại được diễn tả bởi màu xanh lơ đậm nhạt (ton sur ton) hài hoà của đất trời và màu xanh lá cây tươi thắm của ba lùm cây chụm lại cách đầm ấm. (Nhiều người còn nghĩ thêm rằng: ba cây màu xanh muốn nhắc nhở Giáo Hội cần dấn thân vào việc bảo vệ môi trường, bảo vệ sinh thái, một vấn đề rất cấp bách trong thế giới hôm nay).